Total Pageviews

Sunday, April 26, 2015

Từ Thức đến Tâm: Con đường Giới hạnh- Ngõ rẽ Chánh Tà

Không phải ngẫu nhiên mà hai câu chuyện sau được kể tiếp theo nhau mà làm nỗi bật cốt tủy của chuyện đươc kể.

Sau khi Đức Phật nhập diệt, Theo đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất và những tường thuật trong Ma-ha-tăng-kỳ, Tứ phần và Pāli Đọc thêm tại đây:

Chuyện một:
"Nhưng khi nghe tin đức Thế Tôn đã niết-bàn, tỳ-kheo già (mặt chuột) này tỏ vẻ vui mừng và hớn hở nói với các vị tỳ-kheo khác rằng, từ này, ông được tự do, không bị giới luật do đức Thế Tôn thuyết chế, muốn làm gì thì làm tùy theo sở thích.."

 +Luật Tạng của Thượng tọa bộ tường thuật rằng Ngài A-nan : 1-Không thưa hỏi đức Thế Tôn cụ thể những giới điều nhỏ nhặt và ít quan trọng. Tôn giả A-nan : vì không lưu ý nên không thưa hỏi đức Thế Tôn những giới điều nhỏ nhặt và ít quan trọng
+Luật tạng của Đại chúng bộ tường thuật rằng Ngài A-nan : 1-không thưa thỉnh những giới luật nhỏ nhặt cần bỏ cho phù hợp với từng địa phương Tôn giả A-nan : chấp thuận sám hối
+Luật tạng của Pháp tạng bộ tường thuật rằng Ngài A-nan :
    6-không thưa hỏi đức Thế Tôn những giới nào là giới tiểu tiết.
    Tôn giả A-nan : vì lúc ấy A-nan ưu sầu, nên không nhớ để thưa hỏi cụ thể những giới tiểu tiết

 Ở đây ta thấy rõ sự tương phản của tỳ-kheo già (mặt chuột): " không bị giới luật do đức Thế Tôn thuyết chế, muốn làm gì thì làm tùy theo sở thích" và một A-nan chấp nhận sám hối vì không thưa thỉnh, dù cho một giới ly ti nhỏ nhặt nhất.
Nhưng tai sao ngài A-nan chấp nhận sám hôi với lý do " vì không lưu ý" ," vì lúc ấy A-nan ưu sầu",?? Đơn giản qua mức để tạo sự chú ý cần thiềt ? Có lẽ, là đức Thế Tôn đã trã lời :" Không có gì để thay đổi !" nhưng ngài A-nan không nói ra, nên Ngài sám hối ?
 Đức Phật đã nói ra thỉ không thể sai trái, là tuyệt đối, là chân lý nếu không gọi là chứng đắt làm gì cho mệt ! luc thông để làm gì khi mà môt câu nào dó từ kim khâu là sai trái ???? Vì người ta không tin nên có phân biệt giới trọng kinh, giới kinh.! Ngài A-nan biết như thế, biết rõ như thế.
Và đức Thế Tôn cũng đả nhấn mạnh "lấy giới là thầy". Ngài A-nan biết như thế, biết rõ như thế. Ngài A-nan chấp nhận sám hối vì một ẩn dụ nào đó ??? (ba dấu hỏi) . dù có nói ra cũng không làm thay đổi các vị tỳ-kheo già mặt chuột. (Mặt chuột ?)

Chuyện hai:
Trước một ngày chúng Tăng kết tập pháp và luật, Tôn giả A-nan tự nghĩ, ngày hôm sau, chúng Tăng tiến hành yết-ma kết tập pháp và luật, ngài còn là bậc hữu học, mà tham dự đại pháp sự này cùng chúng Tỳ-kheo vô học là không phù hợp.

Đêm ấy, Tôn giả nỗ lực tu tập bằng pháp quán niệm thân. Khi trời gần hừng sáng, Tôn giả cảm thấy mệt, định nằm nghĩ, và khởi lên ý niệm “nằm xuống, nằm xuống”, ngay tư thế nghiên người ấy, ngài đoạn tận các lậu hoặc, chứng đạt thánh quả A-la-hán.

 Nhận xét cử chỉ của ngài A-nan :

- Tôn giả nỗ lực tu tập bằng pháp quán niệm thân : Bướt vào Thân
- Tôn giả cảm thấy mệt, định nằm nghĩ : Bướt vào Thọ - khởi lên ý niệm “nằm xuống, nằm xuống”: bướt vào Tâm ( do nhân được các niệm tâm khơi từ dòng tâm thức )
- “nằm xuống, nằm xuống”, ngay tư thế nghiên người ấy : bướt vào Pháp ( ngũ uẫn ngài A-nan nằm xuống : Định) và cùng lúc ấy Ngài A-nan chứng đạt Ngã Không Pháp Không.

Hai câu chuyên trên cho thấy, do giữ giới dù là nhỏ nhặt và chỉ trong một sớm, một khắc, một sát na.. khi muốn thì, như ngài A-nan, chỉ một niệm khởi là chứng đắt dễ dàng. và chúng ta, nhửng tỳ kheo già (mặt chuột) đã hơn hai ngàn năm trăm năm qua chỉ, và chỉ quẫn quanh theo đường mê dại của ngôn từ trống rỗng.

Sự tương phản của ngài A-Nan nghiêm nhặt trong giới hành và tỳ kheo già mặt chuột đã rõ ràng.

Để thấy rõ năng lực của giử giơi thì ta nên quay lai với bát nhã tâm kinh. Bát nhã tâm kinh viết:
"Này Bồ-đề, đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia."
   तद्यथा गते गते पारगते पारसंगते बोधि स्वाहा ॥ tadyathā gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā.
Điều ấy là như vầy: “Khi đã đi đến, khi đã đi đến, khi đã đi đến bờ kia, khi đã hội tụ ở bờ kia, phẩm vị Giác Ngộ là vật dâng hiến.” (gá-têêê gá-têêê paaa-rá-gá-têêê paaa-rá-xămmm-gá-têêê bô-đơhí xơ-vaaa-haaa).[6]

trich từ : http://www.paliviet.info/Sanskrit/Skrt_BatNha.htm

 Nói rằng vượt qua,vượt qua.., đi qua, đi qua.. Qua cái gì? Nói rẳng bờ bên kia.. Bờ gì ? bờ vai, bờ lau sậy này, bờ biễn Thuận an, bờ sông hương?
Đã là lời Phật dạy thì và như vậy, phải vượt qua một cái gì đó vô hình vô tướng như một ngôi sao xa tít hàng tỷ năm ánh sáng, chúng ta không thấy nhưng nhà khoa học đã tìm thấy qua toán, vật ly, thiên văn hoc.., HỌ đã xữ dung phương tiện khoa hoc để thấy trước chúng ta.
Và Đức Phật qua trí huệ bát nhã Ngài chỉ cho ta làm sao đễ thấy cái vô hình đó. Khi đức Thế Tôn sắp nhập diệt, ngài đã tha thiết dặn khuyên các đệ tử phải lấy giới luật làm thầy: “Này các Tỳ kheo! sau khi ta diệt độ phải nên tôn trọng trân kính Ba-la-đề-mộc-xoa (giới luật) như người đi trong đêm tối gặp ánh sáng, như người nghèo được của báu. Phải biết: Giới là thầy các ông…”

Một vi thầy chắc hẳn không chỉ cho ta phát minh, viết một cuốn truyên, vẽ một bức tranh tuyệt tác, một bản nhạc xuất thế..mà chỉ truyền cho ta những CĂN-BẢN làm hành trang vào đời Giới cũng không khác, là hành trang để nhận ra cái Tâm.

Theo Thành duy thức, thì khi đẩy đũ công đức cơ bản (Căn bản là giới hạnh) thì NĂM THỨC TRƯỚC nhãn, nhĩ. tỷ, thiệt, thân bắt đầu chuyển hóa, trở thành Thành sở tác trí.

Ở Viễn hành địa ( Dùramgama ) Bồ-tát tuy nói đoạn tận tập khí chấp Ngã, nhưng chưa an trú vào vô tướng vẫn phải phát triển tâm đại bi cứu độ chúng sinh. NĂM THỨC TRƯỚC nhãn, nhĩ. tỷ, thiệt, thân bắt đầu chuyển hóa.

Ở Bất động địa ( Acalà ) hay A-La_hán Bồ-tát đoạn tận tập khí chấp Ngã và chấp Pháp, an trú vào vô tướng mà tự tại du hành độ sinh. Bấy giờ NĂM THỨC TRƯỚC nhãn, nhĩ. tỷ, thiệt, thân đươc chuyển hóa thành Thành Sở Tác Trí.

Ở Thiện Huệ địa ( Sàdhumatì ) Thì đã đũ công đức vượt qua vượt qua công đó. 

Ở Pháp Vân Đia (A-la-Hán chánh đẳng chánh giác) thỉ đủ khã năng sáng tạo một lý thuyết làm khời lên con đường mà trước đó chưa có :
" .. này các Tỷ-kheo, ta là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, làm cho khởi lên con đường (trước kia) chưa khởi, là bậc đem lại con đường (trước kia) chưa được đem lại, là bậc tuyên thuyết con đường (trước kia) chưa được tuyên thuyết, bậc tri đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. Còn nay, này các Tỷ-kheo, các vị đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu (đạo)."

 Nói theo cổ điển thì, Năm con sông nhập lai thành một mà đỗ ra biển cả: NĂM THỨC TRƯỚC nhãn, nhĩ. tỷ, thiệt, thân nhập lại MỘT đỗ vào tâm. Và ta nói "thấy đươc tâm", cái vô hình đó chính là khúc sông chảy vào biển cả. Đoạn sông này sóng cồn bể cả là tùy vào nghiệp lực còn sót lại.
Vùng nươc lợ dĩ nhiên có nhưng vùng xoáy ốc xiết và căng.
Ở bát địa vẫn còn lúng túng vươt qua vùng nước lợ. Do vậy Bát nhã tâm kinh phải dùng đến hinh ảnh ấn tượng của Bồ tác Quán thế Âm.
Nếu không có khúc sông này xuất hiện thì mãi mãi cũng chẳng thấy tâm đâu để mà định đươc tâm. (chú ý đoạn này)

Nói theo khoa học giả tưởng Stargate thì gọi là Cỗng bướt vào thế giới khác, bên ngoài trái đất.
Để mỡ chiếc cỗng StarGate thì phài có Mật Ngôn, những cái chử ngoằng nghèo kỳ dị, do nhưng nhà sản xuất phim điên ảnh tương tượng hoặc vay mươn từ các từ ngữ cổ của Iran, Iraq, Campuchia, Thái lan, Miên diên, Nepal,, ... TÂY TẠNG, hay LẠT MA chỉ đạo...
Ở đây không một mật ngôn, mật từ, mật chú,.. Mât gì "tùy ý thêm vào", "Name it", nào có thể mỡ chiếc cỗng này, vì mật ngôn này chính là Giới Hạnh, là tự chứng, là phải do chinh bản thân nỗ lực gìn giữ GIỚI HẠNH nghiêm nhặt.

Chỉ một việc ăn Phi Thời, Đức Phật dạy "Người ăn phi thời, là người phá giới, là người phạm giới trộm.." Tại sao ? bởi vì qua nhân qủa luân hồi Ngài biết rất rõ người đó sẽ từ chổ ăn phi thời, sẽ trở thành tên trộm, rồi tên cướp của,.. rồi một gã giết người,.. và mãi mãi đi vào lục đạo luân hồi sinh tử. 

Đức Phật, do chứng Tam minh, mà Ngài có thể chỉ ra một vài phép quán tưởng để tiêu trừ một vài nghiệp lực nào đó cản trở việc thấy tâm, nhưng Ngài không thể mỡ chiếc cỗng này cho ta.

Do vậy Ngài nói "hảy thắp đuốc, hảy tự chứng..". Mặc dù "thấy đươc tâm", an định đươc tâm (Ngã không, pháp không / A-la-hán, Bất động Địa) nhưng vẫn phải còn tu tâp đễ có thêm công đức mới có thể "Vượt qua Vượt qua bờ bên kia".

Thức thuộc phi vật thể (năng lượng, KHÔNG) khi qua "sự vân dụng của Y Lý" thì Thức trở thành Khí (vật chất, SẮC), tiến trình này gọi là Khí Hoá, và thông qua các khiếu mà ta nhận được khi kết hợp Thận, Tỳ, Can, Tâm, Phế (Đông Y) và Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân.
 -"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
-"Tỳ khai khiếu ở miệng" hay "Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ thuộc thuộc Thổ
-"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
-"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
-"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim
1. Nhãn thức ---> hóa khí--->"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
2. Nhĩ thức---> hóa khí--->"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
3. Tỷ thức---> hóa khí--->"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim
4. Thiệt thức---> hóa khí--->"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
5. Thân thức---> hóa khí--->"Tỳ khai khiếu ở miệng"/" Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ (Thân nhục) thuộc Thổ

 Đoc thêm (Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.4), Nguồn gốc Âm Dương, Ngũ hành

Như thế Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân chập lại còn mang ý nghĩa Kim, Thủy, Hỏa, Môc, Thỗ chập lại và một cái Cỗng (gate): Kim_Thủy_Hỏa_Môc_Thỗ .

Và bát nhã tâm kinh được viết lại theo Pháp tướng tông :

 1- Nương vào công đức vô lượng, Bồ tát Quán Thế Âm, an định, tự tại tiến sâu vào nguồn kinh mạch Kim, Thủy, Hỏa, Môc, Thỗ và rằng khi vượt qua khiếu đó (cỗng, gate) hợp thể năm chất đều là Không, liền thóat khòi mọi khổ ách.

 Một thoáng vẫn vơ:

Tai sao Đức Phật lai dùng hơi thở là đề muc ? -- Khiếu--
Tai sao không dùng Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân mà thay bằng Kim, Thủy, Hỏa, Môc, Thỗ ?
Nói Tử vi là nói Dòng Nghiêp Lực,
Nói Tử vi là nói Hệ Tám Thức
Nói Tử vi là giải bày nghiep lực, la giải bày hệ tám thức.
Thấy có khác thấy không khác. ?
Nói Tử vi là nói Pháp môn, Nghiệp Lực/Tám Thức.
Hình như... Không Khác.

 Nhật Ly

Thursday, December 22, 2011

Trí Tuệ Bát Nhã Tâm Kinh 1.2

1- Nương vào công đức vô lượng, Bồ tát Quán Thế Âm, an định, tự tại tiến sâu vào nguồn kinh mạch Kim, Thủy, Hỏa, Môc, Thỗ và rằng khi vượt qua khiếu đó (cỗng, gate) hợp thể năm chất đều là Không, liền thóat khòi mọi khổ ách.

2- Này người con Xá Lợi, hinh tướng cũng là Không, Không cũng là hình tướng, rằng phi vật chất, vật chất là không hai không khác. Thọ Tưởng Hành Thức đều như vậy

3- Này người con Xá Lợi: Hết thảy các pháp đều không. Không sanh cũng không diệt, không dơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt. Và rằng tánh không, không có hình tướng, cho nên không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nên không có đối tượng của mắt, tai, mủi, lưởi, thân, cũng không có cái biết của sắc, thanh, hương, vị, xúc. Không có vô minh, không có hết vô minh, không có già chết và cũng không có hết già chết. Không có khổ nạn nên không có tập, diệt, đạo, không có tri thức hiểu biết, cũng không có được mất, vì không có gì được hay mất.

4- Giờ đây Đại bồ Tát nương vào trí tuệ Bát Nhã, nên tâm không còn chướng ngại, nên không còn sợ hãi, lìa xa được điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật trong quá khứ, hiện tại, tương lai đều nương theo Trí Tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

5- Cho nên phải biết rằng Trí Tuệ Bát Nhã" là đại thần Lực, là vô thượng lực, là lực vô đối vô song có khả năng tiêu trừ khổ nạn, là chân thật, là sự thật không gian dối.

6- Vì thế, nên biết rằng Trí Tuệ Bát Nhã được tuyên nói trong kinh rằng:
"Vượt qua, vượt qua, vượt qua cổng đó, thể nhập vào trái tim vô thượng, Giác ngộ rồi!"
-------------------------------------
Giải nghĩa Tâm Kinh

1- Tâm kinh được mỡ đầu bằng "Nương vào công đức" xác định không một ai có thề chứng đạt, kiến tánh mà không hôi đủ công đức, tiếp liền đó danh hiệu Bổ tát Quán thế Âm được nêu lên như một cảnh tỉnh, một nhấn mạnh "công đúc viên mãn" là điều kiện ắt có và đủ.

Vậy Công đức là gì? Tại sao lại cần thiết đề vươt qua cổng đó(Kim_Mộc_Thủy_Hỏa_Thổ)

(Đọc thêm:Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.5 "Giải mã huyền sử")
GiaiMaHuyenSu_ChuDongTu
Tưởng cũng cần nhắc lại vào thời kỳ Hùng Vương thứ ba (2879-258 BC) Chử đồng tử và Tiên Dung đươc Đại bồ tát Phật Quang (PHÁP VÂN ĐỊA), truyền lại 4 bộ chân kinh Lộ trình tâm(Dich), Y hoc , Tử vi và Luyên khí .

Bôn chân kinh này liên hệ mật thiết lẫn nhau không thề tách rời nhau đươc vì nó là một tiến trinh tu học cứu cánh Giác Ngộ. Ứng xử (Lộ trình tâm), quản trị nhân lưc (Tử vi), Hành thiện ( Y học), Rèn luyện thân tâm (Luyên khí).

Tử vi (Tử là Hạt, Vi là sóng) là hàm lương tử viết lại dòng Nghiệp lực, Tử Vi đã sử dụng hệ tám thức tức là khoảng 3000 năm trước khi ngài Vô Trươc và ngài Thế Thân (316 AC hay 860 năm sau khi Đức Phật diệt độ) xiêm dương Duy thứ hoc, duy thức thuộc tông Pháp tướng. Nói khác Tử vi nói lên cái Thực Tướng của dòng nghiêp lực. Mọi biến hiện hình tướng đều xuất phát từ biến động từ Tạng thức. Một biến đổi của dòng Nghiêp lực là một hay nhiểu thay đổi qua 12 cung trên địa bàn Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Tật, Tài, Tử, Phu(Thê), Bào và từ đó tương tác lên bộ vị trên tướng, thanh, sắc (màu sắc, bức xạ ánh sáng, sóng), y tướng của đương số, như ta vẫn thường nghe "Tướng tùy tâm sanh tướng tùy tâm diệt" cũng không ngoài khái niêm này.

Biển Thước đi chơi khắp thiên hạ, cứu được nhiều người lắm. Một hôm đi đến đất Lâm Tri, vào yết kiến Tề Hoàn công, nói với Hoàn công rằng :
Chúa công có bệnh ở thớ thịt ; nếu không chữa thì thành ra bệnh nặng.
Hoàn công nói :
- Tôi chẳng có bệnh gì cả !
Biển Thước lui ra. Sau năm ngày lại vào yết kiến ; nói với Tề Hoàn công rằng :
- Bệnh chúa công đã ở mạch máu, làm thế nào cũng phải chữa.
Hoàn công không trả lời. Sau năm ngày nữa lại vào yết kiến, nói với Hoàn công rằng :
Bệnh chúa công đã ở trong ruột và dạ dày rồi, phải chữa ngay đi Hoàn công lại không trả lời. Biển Thước lui ra. Hoàn công than rằng :
Tệ quá ? Thầy thuốc chỉ nghề hay vẽ trò ! Người ta không có bệnh mà cứ bảo là có bệnh ?
Qua năm ngày nữa, Biển Thước lại vào yết kiến Tề Hoàn công, vừa trông thấy nét mặt Hoàn công đã vội lui ra mà bỏ chạy. Hoàn công sai người hỏi. Biển Thước nói :
- Bây giờ bệnh chúa công đã vào đến tủy rồi ! Bệnh ở da thịt còn xoa thuốc được, bệnh ở mạch máu thì còn tiêm thuốc được, bệnh ở ruột và dạ dày còn uống thuốc được, nay bệnh đã vào đến tủy thì dẫu trời cũng không chữa được nữa, bởi vậy tôi không nói mà lui ra.
Lại qua năm ngày nữa. Hoàn công quả nhiên ốm nặng, sai triệu Biển Thước. Người nhà Biển Thước nói :
- Thầy tôi bỏ đi đã năm hôm rồi ?
(Đông châu liệt quốc hồi 32 @ 4phuong.net)
Sắc khí là bức xạ phát ra từ kinh mạch bị đồn nén, bế tắt phát ra khi đi xuyên qua da thịt làm thay đổi màu sắc tại đó như tia laser đỏ để lại vết đỏ khi qua cừa kính.

"The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend personal God and avoid dogma and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense arising from the experience of all things natural and spiritual as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that could cope with modern scientific needs it would be Buddhism."
Lới phát biều trên của Albert Einstein gây nhiều dĩ ứng tôn giáo " Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ . Nó cần phải vượt qua Đấng tạo hóa, tránh giáo điều và thần học. Hàm chứa phi vật chất (tinh thẩn) lẫn vật chất, và (nếu) phải là một tôn giáo thì tôn giáo đó phải bắt nguồn từ kinh nghiêm về vật chất lẫn Phi vật chất (tinh thần) là một tổng thể đồng nhất đầy ý nghĩa. Phật giáo trà lời cho sự mô tả này và nếu có bất kỳ tôn giáo nào có thể đáp ứng với những nhu cầu khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo."
Vũ trụ, thật là đầy ý nghĩa vì không phải chỉ có trái cầu này là hành tinh duy nhất có sinh vật. Theo Tử vi đưới mắt nghiệp quả thì chúng sinh là kết quả của xâu chuổi Vô minh -Lão tử, là thai tạng của dòng nghiêp lực, là biến hiện của tám thức mà thực tướng, hiện tướng của nó là tổng thể đồng nhất cũa vật chất và Phi vật chất.

(Đoạn sau trich từ :CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO PHẬT / Đoàn Trung Còn)
"Pháp tướng tông khi truyền sang Nhật Bản cũng tạo ra rất nhiều ảnh hưởng tích cực trong đời sống của dân tộc này. Khi nhận biết rằng những giá trị vật chất trong cuộc sống vốn là không thật, họ không rơi vào chỗ bi quan yếm thế hay lười nhác, trốn tránh. Trái lại, họ vận dụng được nhận thức này để rèn luyện sự kiên tâm và một nghị lực vững vàng trước mọi biến động trong cuộc sống. Nhờ vậy, họ có thể chịu đựng được những cơn động đất, bão tố, nạn đao binh... Trải qua thảm họa, họ thản nhiên xây dựng lại cuộc sống; gặp những mất mát đau thương, họ mỉm cười chấp nhận để nỗ lực vượt qua. Họ biết rằng không có gì là trường tồn. Những điều tốt đẹp hay xấu xa, thảy đều sẽ qua đi với thời gian. Và nhờ đó, họ không bao giờ đánh mất đi những nỗ lực vươn lên hoàn thiện cuộc sống. Họ tin tưởng rằng, tuy mọi cái đều không thật, đều giả tạm, nhưng chính phần tâm thức, nghị lực của mỗi con người là thật có."
PhapTuongTong.DoanTrungCon
"tuy mọi cái đều không thật, đều giả tạm" và theo Tử vi dưới mắt nghiệp quả thì Thế giới này chỉ không còn hiện hữu khi chúng sinh cuối cùng trong vũ tru được giác ngộ.. Có lẽ đây cũng là lý do Đức Phật muốn nhập diệt ngay sau khi thành đạo, Làm sao đây để chúng sinh hiểu được rằng thế giới này là giã tạm khi mà chúng sinh hiện hữu thì thế giới này còn hiện hữu hay nói khác Vật chất sơn hà địa đại, 12 cung tử vi 12 tương quan Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Tật, Tài, Tử, Phu(Thê), Bào là một thực tại khó bác bỏ. Với con đưòng tu đạo nếu hiểu được là giã tạm, là không thực, là hư vọng, là do nhân duyên sinh, là không, là giã danh thì sự giác ngô sẽ không còn bao xa.

Trở lại với Công đức:

Theo Tử vi dưới mắt nghiệp quả thì khi làm một việc thiên có nghĩa một chủng từ thiện được gieo vào tàng thức. chủng tử đó được goi là chủng từ Công đức. Khi hội đủ điều kiện (duyên) thì sẽ trở thành Phúc đức (phước đức) ở hiện kiếp. Nêu việc thiên đó do Tham Sân Si, Ích kỷ thì nó cũng là chủng tử Công đức nhưng có thêm cái đuôi TSS, IK thí dụ Công-Đức_TSS, Công-Đức_IK, và như thế khó có duyên để thành Phúc đức, nói như vậy không có nghĩa là vô phương cứu chữa chỉ cẩn thực hành Tứ vô lương tâm chuyển hóa Công-Dức_TSS, Công-Dức_IK thành Công đức. Nói như vậy còn có ý nghĩa chỉ cần trong một thoáng giây hành thiện mà tâm tỉnh lặng, không ích kỷ, tâm vi tha, tâm hỹ, tâm xã thì cơ hội chuyển hóa vẫn luôn còn đó. Tâm bồ đề chĩ có thề có khi tạo được thói quen hành thiện, qua kinh nghiệm hoc tâp, qua hành động dấn thân làm thiện mà tâm bổ đề dẩn hiện rõ.

Chuyện kể rằng:

Khi Ðức Ðạt Ma Tổ Sư được rước vào Kim Lăng, vua Lương Võ Ðế hỏi rằng:
- Từ khi lên ngôi, trẫm cất chùa, chép kinh, độ tăng không xiết kể, thế có Công đức chăng?
Tổ Sư nói: - Các việc làm ấy không có Công đức.

Ấy là Tổ Đat Ma ấy nói tới công đức khó có thể biến đổi thành phúc đức trong kiếp hiện tai hay tương lai (Công-Đức_TSS, Công-Đức_IK)

"Lương Võ Ðế làm vua 48 năm, thọ 86 tuổi, 45 năm quy y đầu Phật, chẳng những thâm tín mà còn thông hiểu giáo lý đạo Phật, ông đã một đời hoằng dương chánh pháp như độ tăng, cất chùa, xây tháp, giảng kinh, chú sớ, từ bỏ ngai vàng, tránh cuộc chiến tranh. Người hiểu đạo, mới thấy ông là bậc bồ tát hiện thân, cho nên ông được người đương thời xưng tán là Phật tâm thiên tử."
(Đoạn trên trich từ : LuongVoDe)

Như đã nói Tâm bồ đề chĩ có thề có khi tạo được thói quen hành thiện, qua kinh nghiệm hoc tâp, qua hành động dấn thân làm thiện mà tâm bổ đề dẩn hiện rõ. Với hành trang dấn thân của vua Lương Võ Đế như trên ông quả xứng đáng là bậc bồ tát hiện thân, Công đức vô lượng đáng được xưng tán là Phật tâm thiên tử. Và như thế lời nói của Tổ Đạt Ma chì mang ý nghĩa cùa cây gậy "Thiền" !!

Làm thế nào xây dựng một nền tảng công đức vô lương cứu cánh Niết bàn:
Theo người viết thì giữ giới là yếu tố tiên quyết thưc hành bồ tát đạo như Đức phật đã dạy:

Trong Tăng Chi Bộ kinh, 3B – trang 73, Ðức Phật dạy 10 mục đích hình thành giới bổn như sau:
1. Ðể Tăng chúng được cực thịnh
2. Ðể Tăng chúng được an ổn
3. Ðể chặn đứng các người khó điều phục
4. Ðể các vị Tỳ kheo tốt được sống an ổn
5. Ðể chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại
6. Ðể chặn đứng các lậu hoặc trong tương lai
7. Ðể đem lại niềm tin thanh tịnh chính đáng cho những người chưa tin
8. Ðể làm tăng trưởng niềm tin thanh tịnh chính đáng cho những ai đã có lòng tin
9. Ðể cho chánh pháp được tồn tại
10. Ðể cho giới luật được chấp nhận

Với những điều kiện trên, chúng ta thấy mục đích hình thành giới bổn cũng là để ngăn ngừa điều ác, làm và tăng trưởng điều thiện. Như Luật tạng nói: "Giới là để chế ngự, chế ngự là để khỏi hối hận, không hối hận là để được hân hoan, hân hoan là để được hỷ, hỷ là để được khinh an, khinh an là để được lạc, lạc để được định, định để được chánh kiến, chánh kiến để được vô dục, vô dục để được ly tham, ly tham để được giải thoát, giải thoát để có giải thoát tri kiến, giải thoát tri kiến để đi đến vô thủ trước Niết bàn"
Đọc thêm : TamVoLauHoc

Giới theo quan điểm Ðại thừa gồm
Ngũ giới, Bát quan trai giới, Thập thiện giới cho hàng Phật tử tại gia.
Sa di và Sa di ni có 10 giới, Thức xoa ma na ni thêm 6 học giới,
Tỳ kheo 250 giới, Tỳ kheo ni 348 giới (311? http://en.wikipedia.org/wiki/Patimokkha)
Bồ Tát (tại gia và xuất gia) có 10 giới trọng và 48 giới khinh.

Chương 53- Bài học do Bồ tát Phổ hiền dạy "Phương Pháp Hành Bồ Tát Ðạo".

"Thiện Tài chiêm ngưỡng thân tướng của Bồ tát tỏa ánh hào quang sáng ngời soi tỏa khắp mười phương pháp giới, phát ra vô lượng hạnh nguyện Ba la mật thanh tịnh. Bồ tát xoa đầu Thiện Tài nói:

" Người có thấy thần lực của ta chăng? Thuở quá khứ, trong nhiều vi trần số kiếp, ta đã thực hành Bồ Tát Ðạo để thanh tịnh tâm Bồ đề và kính thờ vô lượng chư Phật. Ta ở trong vô số kiếp mà chưa từng có một niệm nhỏ chẳng theo lời giáo huấn của Như Lai. Ta chẳng bao giờ có tâm sân hận và trụ vào ngã và ngã sở, không một sát na nào rời bỏ Bồ đề. Ta chỉ an trụ tâm trong đại bồ đề thượng và dùng tâm đại bi cứu giúp chúng sinh, trang nghiêm cõi Phật. Trong nội tâm và ở ngoài cảnh giới đều xả hết, cho đến cả mạng sống của ta cũng không hề tiếc rẻ. Nếu nói những việc ta đã làm thì vô cùng tận. Ðại dương bát ngát còn có thể cạn khô, chứ những hạnh nguyện của ta bình đẳng, thanh tịnh, tùy thuận chúng sinh mà ứng hiện khắp nơi, làm cho ai nấy đều được an vui, hết khổ."
(trich từ: http://www.thuvienhoasen.org/tdn-hoanghiem-02B.htm)

" Sự quán tưởng bằng lý trí luật nhân quả của Phật, dầu toàn hảo và tuyệt luân đến mấy, vẫn không chắc gì quyết định được sự chiến thắng vô minh, đau khổ, sanh tử và ô nhiễm"
(Trich từ Thiền Luận D.T.Suzuki /Đại đức Tuệ Sĩ chuyển dịch)

Mà ta phải sống thân thiết với cảnh giới tự chứng ấy của người mở đạo. Cảnh giới tự chứng đó là vô lương kiếp tu hành Bồ Tát Đạo, thực hiện lời Đại nguyện Từ Bi Hỷ Xã. (Tứ Vô Lương Tâm). Điếu cực kỳ quan trong ở đây là qua tứ vô lương tâm mà dung chứa đươc tất cả chúng sinh vào tâm thức của mình như người mẹ dung chứa đứa con một trong tâm thức người mẹ, mọi vui buồn khổ đau của con chinh là vui buồn khổ đau của mẹ.

Lòng mẹ

Vào một đêm Giáng sinh, một thiếu phụ mang thai lần bước đến nhà một người bạn nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến nhà người bạn có một con mương sâu với cây cầu bắc ngang. Người thiếu phụ trẻ bỗng trượt chân chúi về phía trước, cơn đau đẻ quặn lên trong chị. Chị hiểu rằng mình không thể đi xa hơn được nữa. Chị bò phía bên dưới cầu.

Ðơn độc giữa những chân cầu, chị đã sinh ra một bé trai. Không có gì ngoài những chiếc áo bông dày đang mặc, chị lần lượt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đứa con bé xíu vòng từng vòng giống như một cái kén. Thế rồi tìm thấy được một miếng bao tải, chị trùm vào người và kiệt sức bên cạnh con.

Sáng hôm sau, một người phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy. Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, bà nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà nhìn thấy một đứa bé nhỏ xíu đói lả nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng.

Bà đem đứa bé về và nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi mẹ nuôi kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình. Vào một ngày lễ Giáng sinh, đó là sinh nhật lần thứ 12, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp. Khi đến nơi, cậu bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu bé đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà mẹ nuôi đứng nhìn sững sờ khi cậu bé lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.

"Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả - bà mẹ nuôi nghĩ - Cậu sẽ lạnh cóng!". Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu bé gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết: "Mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?". Và cậu bé òa khóc.
Truyện này do bạn Dang Hoang (Email: danghoang@operamail.com) gởi đến Xitrum.net

Lời bình của Nguyen Vinh Trung :
"Trên đời này không co tình cảm nào thiêng liêng hơn tình mẹ. Mẹ là tất cả, bởi vậy câu chuyện đã làm bạn rơi nước mắt, phải không nào? Nếu bạn rơi nước mằt, có nghĩa là con người thánh thiện trong bạn vẫn còn. Chỉ sợ những bạn đọc xong câu chuyện này mà vẫn "tỉnh rụi" thì thật đáng sợ."
Trich từ: LongMe
(còn tiếp)

Wednesday, December 21, 2011

Vô Minh Là Gì ?

"Tuần này con kiếm được 360 đô', nỗi vui mửng hiên rõ trong mắt Tina. Hằng tuần, vào ngày thứ bảy, chủ nhật học sinh các trường trung học dều có tổ chức thành nhóm làm việc thiên nguyên, việc rất dơn giãn là "Rữa Xe", tiền kiếm đươc sẽ gởi tới hội đoàn bảo trợ ung thư, trẻ mồ côi,người già, vô gia cư...tuy nhiên không phải các trương đều có tổ chức thăm viếng các nơi như trên, cho các em có cơ hội tiếp xúc trực tiêp con bệnh, người già lẻ loi, trẻ em thiếu tình thương, nó có một lợi ich chắc chắn là học sinh cãm nhân đươc sự già nua, bệnh tật, cô đơn, sư ruổng bỏ của thân nhân, gia dinh, , Với số tiền kếch xù kiếm đươc tuần này nhóm Tina đươc giải nhất toàn trương "Dakota high" trong tháng 9, 2008. Nỗi vui mừng đó chắc hẳn vì vinh dự giải nhất đoạt được. Tuy nhiên ẩn sâu trong thâm tâm các em, một thói quen "thiện nguyện" đang đâm chồi nảy lộc. một chủng tử Bồ tát hạnh đang chuyển hóa tâm thức.

"Bố ơi ngày mai thứ bảy, minh đi chùa phải không bố?"
"Ừ con"
"Tuân này bố có good deal nào không"
'Không con ạ, mobo, cpu còn mắc quá, chờ thêm một tuần nữa vậy"
An nghỉ thầm "Đi chùa", là một thói quen mà anh được huấn tập nhiếu năm, xuất phát từ truyền thống gia đình và được giải thich là để tìm sự thanh tịnh tâm hồn, lắng nghe chư Tăng thuyết pháp tìm được hương đí trong chánh pháp, ngửi mùi trầm mùi nhang, mùi bông hoa cúng Phật để thấy lòng an lạc vưng tâm trên con đường chánh đạo. Bố thí cúng dường như đắp lại con đường chông gai, gập gềnh cho chúng sinh bướt nhanh hơn vế cỏi Phật.
An mỡ ví lấy 5 đồng rồi gọi con " Tina, tiền cúng dường ngày mai con đây"
Tina reo lên : "con xin hồi hướng công đức này về tất cã chúng sinh"
Vâng, ngày mai thứ bảy, Tina sẽ đút 5 đồng vào thùng cúng dường thì thầm khấn nguyện như một thói quen, một truyền thống đã đươc trao truyền.

Theo Hồ Ngọc Đức, Free Vietnamese Dictionary Project
Thói Quen :
Lối, cách sống hay hành động do lặp lại lâu ngày trở thành nếp rất khó thay đổi.
Thí dụ:
Thói quen ngủ sớm dậy muộn.
Tập cho thành thói quen.
Thói quen nghề nghiệp.

Rất khó để thay đổi Thói quen, và hình như thói quen không thông qua tri thức hẩu kiểm tra lại hành đông chính cùa mình !

ví dụ khi viết một nốt nhạc, lới ca lần đầu tiên, nhạc công có thể viết sai một nốt nhạc nào đó , nhưng bàn tay họ thoăng thoắt không một chút mảy may sai lầm trên phim đàn.

Với thói quen ăn cắp, ngươi đó cũng không một chút mảy may đắn đo khi tay chạm vào cái vật có giá hay không đó, và đôi khi tài vật đó chỉ ở một xó xỉnh nào đó trong căn phòng chật hẹp.., nói gọn "lấy về chỉ vất đó".

Trong nghề nghiệp thói quen đươc biểu hiện qua kinh nghiêm nhiều năm thao tác một việc , nhiểu việc khác nhau.

Điều suy ngẫm là thói quen không do băn năng mà do thời gian luyện tập mà có, dù xấu hay tốt. Là một tâp khí của Alaida thức, thức thứ tám hệ thông tám thức, có khả năng biến đổi thực tại hôm nay hay xa hơn trong tương lai, một kiếp sống nào đó.

Vijja (vijjaa): Clear knowledge; genuine awareness; science (specifically, the cognitive powers developed through the practice of concentration and discernment).

Minh (明) :Chử nhật và chử nguyêt đứng chung mà thành Minh. Mặt trời, mặt trăng , chú ý tới chuyển động (biến đổi) Trăng lên thì Trời lặn, Trời lên thì trăng lặn, nói khác là 1 thói quen được huấn tâp qua nhiêu tỷ năm và nảy sinh ra kỳ tâm (minh).

Có thể nào thói quen Bố thí, thói quen yêu thương mọi người, thói quen Tứ vô lương tâm được xem như .. "không là gì cả".

Có thể lắm, một mai thức dậy bỗng thây yêu thương mọi người không một chút đăn do vì ai tôi làm vậy, vì có đối tượng hay không.

Qua vijjaa và Minh nếu Kinh nghiệm được xem là hoàn thiện một việc làm, một tư duy, một tư tưởng... Nói rộng ra, theo tư tưởng nhà Phật, là hoàn thiện một tác ý (Thân Khẩu Ý) và tác ý đó được luyên tâp trở thành thói quen, ở đó trung gian của chuổi luận giải này (tác ý này) từng niệm sinh khởi đúng sai, thiên ác đã được kiểm soát nghiêm nhặt, và Thiện tâm Ác tâm được xem xét theo tiêu chuẩn Bát chánh đạo.

Bootup Flowchart



Trích từ : fixingmycomputer.com/flowcharts/boot-up-flowchart.html

Và như thế Vô minh đươc định nghĩa là không có khà năng hoàn thiện một tác ý (thiên tâm/Ác tâm) thành thói quen và như thế không có ngày mai "Vâng, ngày mai thứ bảy, Tina sẽ đút 5 đồng vào thùng cúng dường thì thầm khấn nguyện như một thói quen, một truyền thống đã đươc trao truyền.", và như thế không thể có "không một chút đăn do vì ai tôi làm vậy, vì có đối tượng hay không".

Chúng sanh vô biên thề nguyện độ
Phiên não vô tận thề nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thề nguyện học
Phật đạo vô thượng thề nguyện thành


--------------------------------------

Suy ngẫm 1:

Hành là gì ? là Ước muốn hoàn thiện một tác ý mà cứu cánh là Chân Thiên Mỹ

Thí dụ:

Anh Bê "nói" anh sẽ ăn cướp nhà bamk AAA . Cảnh sát vẫn chưa bắt Bê
Anh Bê "nghỉ" anh sẽ ăn cướp nhà bamk AAA. Cảnh sát vẫn chưa bắt Bê
Anh Bê đã mua súng, có bản đồ nhà bank AAA, họa đồ hệ thống an toàn của nhà bank AAA và nếu có thêm đồng lõa trong việc cướp nhà bank AAA. Anh Bê sẽ bị bắt cùng đồng lõa. Anh Bê có ý muốn cướp nhà bank là một sự thật dù chưa xảy ra hành động

Suy ngẫm 2:

Chú ý "không có khả năng hoàn thiện" không có nghĩa 'không có ý muốn hoàn thiện'
Do hành, ý muốn hoàn thiện. Có gì liên quan tới sự tiến hóa ???

Monday, November 28, 2011

Trí Tuệ Bát Nhã Tâm Kinh 1.1

Tâm Kinh Bản Anh Ngữ
Maha Prajna Paramita Hridaya Sutra
The Heart Sutra

1- Maha Prajna Paramita Hridaya Sutra Avalokiteshvara Bodhisattva, when practicing deeply the Prajna Paramita, perceived that all five skandhas in their own being are empty and was saved from all suffering.

2- O Shariputra, form does not differ from emptiness, emptiness does not differ from form. That which is form is emptiness, that which is emptiness, form. The same is true of feelings, perceptions, impulses, consciousness.

3- O Shariputra, all dharmas are marked with emptiness. They are without birth or death, are not tainted, nor pure; do not increase, nor decrease. Therefore, in emptiness no form, no feelings, no perceptions, no impulses, no consciousness, no eyes, no ears, no nose, no tongue, no body, no mind, no color, no sound, no smell, no taste, no touch, no object of mind, no world of eyes, through to no world of mind consciousness. No ignorance and also no extinction of it, through to no old age and death and also no extinction of it. No suffering, no origination, no stopping, no path, no cognition, also no attainment, with nothing to attain.

4- The Bodhisattvas depend on Prajna Paramita and their minds are no hindrance. Without any hindrance no fears exist. Far apart from every deluded view they dwell in Nirvana.
In the Three Worlds all Buddhas depend on Prajna Paramita and attain unsurpassed, complete, perfect Enlightenment.

5- Therefore know: the Prajna Paramita is the great transcendent mantra, is the great bright mantra, is the utmost mantra, is the supreme mantra, which is able to relieve all suffering and is true, not false.

6- So proclaim the Prajna Paramita mantra, proclaim the mantra that says:
Gyate, gyate, paragyate parasam gyate, bodhi Svaha!



Skandhas: In Buddhist phenomenology and soteriology, the skandhas (Sanskrit) or khandhas (Pāli, aggregates in English) are any of five types of phenomena that serve as objects of clinging and bases for a sense of self.[1] The Buddha teaches that nothing among them is really "I" or "mine".

Bản tiếng Hán của ngài Huyền Trang:

QuánTựTại BồTát hành thâm Bátnhã Balamậtđa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai Không độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị Không, Không bất dị sắc, sắc tức thị Không, Không tức thị sắc; thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp Không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Thị cố Không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỵ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí, vô đắc, diệc [vô bất đắc].
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn.
Tam thế chư Phật y Bátnhã Balamậtđa cố đắc Anậuđala Tammiệu Tambồđề.
Cố tri Bátnhã Balamậtđa, [thị đại thần chú,] thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thực bất hư. Cố thuyết Bátnhã Balamậtđa chú, tức thuyết chú viết,
Yếtđế yếtđế balayếtđế balatăng yếtđế bồđề tátbàha.

Trí Tuệ Bát Nhã Tâm Kinh

1- Nương vào công đức vô lượng, Bồ tát Quán Thế Âm, an định, tự tại tiến sâu vào nguồn kinh mạch Kim, Thủy, Hỏa, Môc, Thỗ và rằng khi vượt qua khiếu đó (cỗng, gate) hợp thể năm chất đều là Không, liền thóat khòi mọi khổ ách.

2- Này người con Xá Lợi, hinh tướng cũng là Không, Không cũng là hình tướng, rằng phi vật chất, vật chất là không hai không khác. Thọ Tưởng Hành Thức đều như vậy

3- Này người con Xá Lợi: Hết thảy các pháp đều không. Không sanh cũng không diệt, không dơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt. Và rằng tánh không, không có hình tướng, cho nên không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nên không có đối tượng của mắt, tai, mủi, lưởi, thân, cũng không có cái biết của sắc, thanh, hương, vị, xúc. Không có vô minh, không có hết vô minh, không có già chết và cũng không có hết già chết. Không có khổ nạn nên không có tập, diệt, đạo, không có tri thức hiểu biết, cũng không có được mất, vì không có gì được hay mất.

4- Giờ đây Đại bồ Tát nương vào trí tuệ Bát Nhã, nên tâm không còn chướng ngại, nên không còn sợ hãi, lìa xa được điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật trong quá khứ, hiện tại, tương lai đều nương theo Trí Tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

5- Cho nên phải biết rằng Trí Tuệ Bát Nhã" là đại thần Lực, là vô thượng lực, là lực vô đối vô song có khả năng tiêu trừ khổ nạn, là chân thật, là sự thật không gian dối.

6- Vì thế, nên biết rằng Trí Tuệ Bát Nhã được tuyên nói trong kinh rằng:
"Vượt qua, vượt qua, vượt qua cổng đó, thể nhập vào trái tim vô thượng, Giác ngộ rồi!"

-------------------------------------
Chú Giải Tâm Kinh
1- Tâm kinh được mỡ đầu bằng "Nương vào công đức" xác định không một ai có thề chứng đạt, kiến tánh mà không hôi đủ công đức, tiếp liền đó danh hiệu Bổ tát Quán thế Âm được nêu lên như một cảnh tỉnh, một nhân mạnh "công đúc viên mãn", mọt điều kiên ắc có và đủ.

Vậy Công đức là gì? Tại sao lai cần thiết đề vươt qua cổng đó.



-------------------------------------
Chú thích 1 :

Thức thuộc phi vật thể (năng lượng, KHÔNG) khi qua "sự vân dụng của Y Lý" thì Thức trở thành Khí (vật chất, SẮC), tiến trình này gọi là Khí Hoá, và thông qua các khiếu mà ta nhận được khi kết hợp Thận, Tỳ, Can, Tâm, Phế (Đông Y) và Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân.

-"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
-"Tỳ khai khiếu ở miệng" hay "Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ thuộc thuộc Thổ
-"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
-"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
-"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim

1. Nhãn thức ---> hóa khí--->"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
2. Nhĩ thức---> hóa khí--->"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
3. Tỷ thức---> hóa khí--->"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim
4. Thiệt thức---> hóa khí--->"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
5. Thân thức---> hóa khí--->"Tỳ khai khiếu ở miệng"/" Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ (Thân nhục) thuộc Thổ
Đoc thêm (Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.4)


"Muốn trở về với Chân Tánh Bổn Nguyên Thanh Tịnh thì phải nương vào Thân Xác Thô Kệch này, là hiện tướng của vô lượng những quang minh đã bị lưu ngại cô động lại. Phải dựa vào Năm Giác Quan Thô Phù của nó gồm Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân " (Trích từ DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI / Thích Trí Châu)

DuyThucTamThapTungLuocGiai ThíchTríChâu : Click here

Như vậy "hiện tướng của vô lượng những quang minh đã bị lưu ngại cô động lại." theo Từ Vi Dưới mắt Nghiệp Quả là sự cô đọng lại cúa Khí trong tiến trình Tiền Ngũ Thức được Khí hóa thành Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân tương tự quá trình hơi nước và nước,..

Chú thích 2 :

Dòng hải lưu là chuyển động trực tiếp, liên tục và tương đối ổn định của nước biển và lưu thông ở một trong các đại dương của Trái Đất. Các dòng hải lưu có thể lưu thông trên một quãng đường dài hàng ngàn kilômét. Chúng là rất quan trọng trong việc xác định khí hậu của các lục địa, đặc biệt ở những khu vực gần biển. Ví dụ nổi bật nhất là dòng Vịnh (còn gọi là hải lưu Gulf Stream từ tiếng Anh Gulf Stream), dòng hải lưu này làm cho phần tây bắc châu Âu có nhiệt độ cao hơn bất kỳ khu vực nào có cùng vĩ độ. Một ví dụ khác là quần đảo Hawaii, ở đó khí hậu có tính cận nhiệt đới và mát hơn đáng kể so với các khu vực có cùng vĩ độ nhiệt đới với nó do dòng hải lưu California gây ra. Tuy nhiên, tầm quan trọng của các dòng hải lưu cũng được làm sáng tỏ thêm bởi hiện tượng El Niño, trong đó sự đảo ngược tạm thời của dòng hải lưu sinh ra những sự thay đổi khí hậu có tính khắc nghiệt hơn dọc theo bờ biển phía tây Nam Mỹ. Các hiệu ứng của El Niño trải rộng đến tận nước Úc.

Các dòng hải lưu bề mặt nói chung được lưu thông bởi gió và có xu hướng chảy theo các xoắn ốc cùng chiều kim đồng hồ ở bắc bán cầu và ngược chiều kim đồng hồ ở nam bán cầu do hiệu ứng Coriolis. Trong các dòng hải lưu chuyển động bởi gió thì hiệu ứng xoắn ốc Ekman làm cho dòng chảy tạo ra một góc nào đó so với hướng gió.

Các dòng hải lưu sâu được lưu thông do các độ chênh lệch (gradient) của mật độ và nhiệt độ. Luân chuyển nhiệt muối, còn được gọi là "băng tải đại dương", được dùng để chỉ các dòng hải lưu sâu chảy trong lưu vực dưới đáy các đại dương. Các dòng lưu chuyển này chảy sâu dưới đáy biển và do đó khó phát hiện và đôi khi còn được gọi là các con sông ngầm dưới đáy biển.

Các dòng hải lưu đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình di cư và phân tán của các sinh vật.
HaiLuu

Chú Thich 3

- Thiên 'Kinh Mạch' ghi: "Kinh mạch có nhiệm vụ doanh cho sự vận hành của khí, nó 'chế' để cho khí trở thành 'độ lượng', bên trong nó làm cho khí của ngũ hành vận hành thành thứ tự, bên ngoài nó làm cho lục phủ phân biệt nhau" (LKhu 10, 1).
- Thiên 'Hải Luận' ghi : "12 kinh mạch, trong thì thuộc vào tạng phủ, bên ngoài lạc với tứ chi và cốt tiết" (LKhu 33, 1).
- Nan thứ 23 Nan Kinh ghi: 'Kinh Mạch là nơi vận hành của khí huyết, là nơi để cho khí Âm Dương thông nhau nhằm làm cho cơ thể tươi tốt" (NKinh 23, 6).
Như vậy chức năng của kinh mạch là vận hành khí huyết nuôi dưỡng toàn thân.
Khí tuần hành trong hệ thống kinh lạc gọi là 'Kinh khí'. Dưới sự thúc đẩy của kinh khí, khí huyết tuần hành không ngừng trong kinh lạc, không ngừng đưa dinh dưỡng đến toàn thân, bảo đảm chức năng sinh lý bình thường của các tổ chức trong cơ thể và bảo đảm sự liên hệ ăn khớp giữa các tổ chức đó. Nếu tuần hoàn khí huyết mất điều hoà sẽ gây ra bệnh.
YhocCoTruyen

Kinh (經 - đường dọc, sợi thẳng) là đường chính đi thông mọi chỗ. Lạc (絡 - đan lưới, mạng) là những nhánh phân ra từ Kinh.)

Kinh Lạc làm thành một mạng lưới nối tiếp, chằng chịt, phân bố khắp toàn thân. Kinh Lạc liên kết các tạng phủ, các tổ chức lại với nhau thành một chỉnh thể thống nhất.
Năm 1986, bác sĩ Jean Claude Darras và các nhà y học tại viện Neker đã chụp hình được các đường Kinh Lạc bằng một máy ảnh điện tử đặc biệt. Các nhà khoa học tiêm vào một số huyệt một dung dịch chứa Tecnetic (một hoá chất có tính phóng xạ). Máy ảnh bắt được những tia Gamma phát ra từ chất này. Qua đó người ta thấy: Sau khi tiêm vào các huyệt, dung dịch chứa Tecnetic nói trên đã lan tỏa theo các Kinh phần nào trùng hợp với những Kinh được miêu tả trong các sách châm cứu. Ngược lại, nếu tiêm vào một điểm khác trên cơ thể thì dung dịch chỉ tụ lại một chỗ, không hề lan tỏa.
Đáng chú ý nhất là các nhà y học đã xác định được rằng các Kinh châm cứu được chụp ảnh hoàn toàn không tương ứng với đường đi của mạch máu, đường gân hoặc đường dây thần kinh. Đó là các Kinh chức năng chạy theo những đường mà cho đến nay khoa học chưa hề biết đến.
Hệ thống Kinh chính gồm 12 đường kinh, xếp theo thứ tự tuần hoàn kinh khí: Thủ Thái Âm Phế Kinh, Thủ Dương Minh Đại Trường Kinh, Túc Dương Minh Vị Kinh, Túc Thái Âm Tỳ Kinh, Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh, Thủ Thái Dương Tiểu Trường Kinh, Túc Thái Dương Bàng Quang Kinh, Túc Thiếu Âm Thận Kinh, Thủ Quyết Âm Tâm Bào Kinh, Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh, Túc Thiếu Dương Đởm Kinh, Túc Quyết Âm Can Kinh.
KinhMach

Chú thích 4

Tâm-kinh (Hṛdaya Sūtra, 心經) thường đi một tập với kinh Kim-cang, là kinh duy nhất sánh với kinh Kim-cang trong sự thịnh hành phổ biến. Thật ra, hai kinh này là có kết hợp gần gũi với nhau cả về bản chất và hình thức, nhưng hoàn toàn không thích hợp để nói về phương diện so sánh cao thấp lẫn nhau, mặc dù Tâm-kinh là một tác phẩm cực kỳ cô động, nội dung chỉ gồm có một trang giấy duy nhất trong hầu hết các bản, hiện nay có hai bản dịch một dài và một ngắn.
Hai bản này giống nhau về thân bài, nhưng bản dài hơn thì có thêm giới thiệu, kết luận và phần tường thuật về nhân duyên Đức Phật giảng kinh. Kinh này thật ra cũng là một cuộc đối thoại, mặc dù chỉ có một người nói, trong đó hai vấn đề (sắc và không) được hình thành, tức là hai thái cực mà giữa đó một năng lực được tạo ra để thiết lập dòng chuyển hoá biện chứng.
Nhân vật trong kinh là Bồ-tát Quan-thế-âm (Bodhisattva Avalokiteśvara) là hình ảnh nổi bật nhất trong văn học Bát-nhã Ba-la-mật và ngài Xá-lợi-phất (Śāriputra,). Bồ-tát Quan-thế-âm thuyết giảng cho vị đại đệ tử lớn là Xá-lợi-phất. Ngài đã đưa ra quá trình tiến triển tâm linh của ngài đã đạt được Trí tuệ thâm sâu tối thượng.
Đặc biệt, kinh này là một bản tuyên ngôn của lý Tứ-diệu-đế trong ánh sáng nổi bật của tư tưởng Tánh-không. Như trong hầu hết các kinh rất ngắn khác, phần lớn những lời kinh đều lấy từ kinh Bát-nhã Ba-la-mật loại ‘Lớn’ (dài). Tuy nhiên, những phần này được thống nhất với nhau thành một thể khéo léo đầy sức thuyết phục và những nấc thang biện chứng theo tầng bậc cái này tiếp cái khác rất lô-gíc qua pháp thoại của Bồ-tát Quan-thế-âm ban cho tôn giả Xá-lợi-phất. Như thể thông điệp của Tuệ giác Bát-nhã là chưa đủ cô động hoàn toàn, bài kinh lại thêm vào một kết luận chính xác của một đoạn thần chú ngắn tạo thành một sự cô động tinh túy thực sự: "Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề ta bà ha". ‘Vượt qua, vượt qua, vượt qua bờ kia, vượt qua hai bờ, ôi giác ngộ! (堨諦,堨諦波羅堨諦,波羅增堨諦,菩提薩婆訶).332Âm điệu thích đáng của những thần chú này làm cho tâm tư của con người dường như mở ra để thâm nhập vào Trí tuệ tối hậu.
Bát-nhã Tâm-kinh cũng nổi tiếng và gây ân tượng như Kinh Kim-cang. Bản gốc tiếng Phạn của hai kinh này được tìm thấy trên lá buông ở Nhật, bản kinh ngắn hơn được mang đến đó khoảng năm 609 và bản dài hơn được mang đến vào năm 850. Trong khoảng thời gian sáu thế kỷ, bảy bản dịch của kinh được ra đời như của ngài Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva, 摎摩羅什) hoặc đệ tử của ngài (năm 400), Huyền-trang (Hsuan-tsang, 玄莊,năm 649), Pháp-nguyệt (Dharmacandra, 法月,năm 741), Đại-huệ (Prajñā,大慧, năm 790), Tuệ-nhãn (Prajñācakra, 慧眼,năm 861), Thi-hộ (Fa-cheng, 施護, năm 856) và Đà-na-ba-la (Dānapala, 陀那杷羅, năm 1000). Kinh Bát-nhã cũng được Vô-cấu-hữu luận sư (Vimalamitra, 無垢有) dịch ra tiếng Tây tạng. Có những bản dịch và những bản sớ giải của Mông cổ và Mãn-chu (Manchu). Ở phương Tây có hơn 10 bản dịch tiếng Anh, bên cạnh đó còn có sáu bản dịch tiếng Pháp và một bản tiếng Đức. Điều này cho thấy sự phổ biến của Tâm-kinh.333
Trung-Anh Phật học Tự điển (Dictionary of Chinese Buddhist Terms, 中英佛學辭典) đã định nghĩa như sau:
"Bát-nhã Tâm-kinh có nhiều bản dịch với nhiều tựa đề khác nhau, bản của ngài Cưu-ma-la-thập được sử dụng phổ biến, đã nói lên bản chất của các kinh Tuệ giác. Có nhiều sớ giải về bản kinh này."334
Nhìn chung, trung bình cứ mỗi trăm năm có hai bản dịch mới của Bát-nhã Tâm-kinh được ra mắt độc giả, mỗi bản có sự cải thiện hơn. Bởi lẽ tính chất cô động và tinh hoa của kinh, nên Bát-nhã Tâm-kinh rất được phổ biến và phát hành rộng rãi khắp Trung hoa, Việt nam và nhiều nước khác.
Bát-nhã Tâm-kinh thuộc đa-hệ phái, bởi lẽ được tất cả các hệ phái Phật giáo chấp nhận như là một giáo nghĩa tinh yếu của Đại-thừa Phật giáo, không chỉ bởi các truyền thống nghiên cứu học giả mà còn các truyền thống tu tập của thiền và tịnh độ. Bởi tính chất ngắn ngũi và cô động, bài kinh này thích hợp cho cá nhân hay tập thể dễ nhớ và đọc tụng. Kinh rất phổ biến cả giới xuất gia và tại gia ở các nước như Việt nam, Trung hoa, Nhật bản, Đại hàn… thường tụng ở cuối mỗi buổi lễ. Sự phổ biến rộng rãi của kinh là một trong những điểm đặc biệt của Phật giáo Đại-thừa ở nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất. Nói một cách khác, tinh hoa của toàn thể kinh điển Đại-thừa được chứa trong 262 từ của bản Hán dịch Tâm-kinh. Thế nên, ta mới thấy sự quan trọng của kinh này thế nào!
TâmKinhDocThem

Chú Thich 5

Và khi đạt đến Bát địa (Bất động địa) thì Mạt na chấm dứt câu sinh ngã chấp (sự bám víu vào ngã chấp hay tập khí - ngã chấp, nó có mặt cùng với [together - câu sinh] lúc con người vừa sinh ra). Sự câu sinh chấm dứt nghĩa là Tàng thức được giải thoát (release) mọi ràng buộc, bám víu của Mạt na. Vì thế ở đây, Mạt na thức chuyển thành Bình đẳng tánh trí (Samatàjnàna) - tức năng lực thấu thị của tuệ giác có thể nhận thức và thấy rõ toàn chân pháp giới trong một hiện hữu (existence). Đây là nội dung của "Một là tất cả, tất cả là một", hay "trên đầu sợi lông, tôi thấy suốt cả ba đời chư Phật ", hoặc "trong một niệm tôi thấy ba đời..." v.v... như được trình bày trong Hoa Nghiêm (Gandavyùha), qua sớ giải của ngài Pháp Tạng. 

Cho đến khi hành giả đạt đến Sơ địa (Hoan hỷ địa) thì sự phân biệt ngã và pháp được đoạn trừ, nhưng tập khí câu sinh của ngã và pháp vẫn còn tiềm phục (ngủ yên) trong Tàng thức. Khi đạt đến Thất địa (Viễn hành địa) thì chủng tử Câu sinh của sự chấp ngã được đoạn tận, dòng vận hành của các pháp được điều phục, Tàng thức lúc này chỉ thuần vô lậu. Đến khi sắp bước vào Phật vị, chủng tử câu sinh pháp - chấp được đoạn tận, Ý thức chuyển thành "Diệu quan sát trí" - trí tuệ có năng lực quan sát khắp "ba nghìn thế giới". 

khi đạt đến Bát địa (Bất động địa), hành giả đã đoạn trừ câu sinh pháp chấp, không còn cảm thọ sinh tử. Do đó tên gọi Dị thục thức không còn nữa mà được gọi là Vô cấu thức và chuyển thành Đại viên cảnh trí (tuệ giác vĩ đại)

khi Tàng thức chuyển thành Đại viên cảnh trí thì 5 thức này biến thành "Thành sở tác trí". 

TamLyHocPhatGiao_ThichTamThien

[6]  Bốn trí Bồ đề là trí huệ giác ngộ. Những gì bốn?
1)       Đại viên cảnh trí: Do công năng tu tập chuyển đệ bát thức, tức tàng thức phàm phu, chứa chủng tử hữu lậu thành Nhất thiết chủng trí, tức tổng thể tất cả Như Lai công đức. trí này như gương lớn sáng sạch chiếu soi tất cả sắc tướng trang nghiêm, duyên cảnh thanh tịnh, gồm thâu chiếu soi sự lý pháp giới viên dung, nên gọi là Đại viên cảnh trí.
2)       Bình đẳng tánh trí: Chuyển thức thứ bảy Mạt na chấp ngã đạt thành lý vô ngã. Đối tất cả chúng sanh khởi tâm vô duyên trí đại từ bi, không còn nhiễm chấp, nên gọi là Bình đẳng tánh trí.
3)       Diệu quan sát trí: Chuyển ý thức thứ sáu la thức bén nhạy quán sát lanh lợi tướng của các pháp, đạt thành trí quán sát diệu dụng thuyết pháp đoạn nghi, gọi là Diệu quan sát trí.

4)       Thành sở tác trí: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. Do tu hành chuyển năm thức này thành thanh tịnh trí, thành trí biến hóa phương tiện quyền xảo làm lợi ích cho tất cả hàng phàm phu Nhị thừa. Như Đức Như Lai hiện thân độ, quốc độ và các thần thông độ đều do sở tác diệu dụng của Thành sở tác trí.

Tóm lại, tám thức của phàm phu do chuyên cần công phu tu tập mà chuyển tám phàm thức thành bốn thánh trí Bồ đề.

ThangMan-ThichDucNiem
(còn tiếp)

Tuesday, November 22, 2011

Mộc đại: Yếu tố thứ năm sau Đất, Gió, Lủa, Nước

Tứ Đại hay bốn cái lớn trong vũ trụ, theo kinh điển của Phật Giáo gồm đất, nước, gió, lửa. (Về Thân tứ Đại tìm đọc Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.4)

Mọi sự vật hiện hữu trong vũ trụ đều có một giá trị tương đối, ví dụ khi nói tới kim loại, thì Vàng là kim loại quý phổ biến nhất, ngay chính sự đầu tư vàng cũng là một nơi trú ẩn an toàn chống lại bất kỳ cuộc khủng hoảng, kinh tế, chính trị, xã hội hay tiền tệ dựa trên đó, chẳng hạn như: giảm thị trường đầu tư, tiền tệ thất bại, lạm phát, chiến tranh và bất ổn xã hội. Vàng là không giống như một trái phiếu và vàng không thể trở thành vô giá trị như một trái phiếu có thể.

Và cũng như thế khi tìm hiểu Mộc đại, chúng ta không thể bỏ qua một loài hoa cao quý đươc bàn tới rất phỗ biến trong kinh sách Phật giáo và là biểu tượng của sự thuần khiết, tinh thần bất khuất vô nhiễm, là vươn dậy trong mọi nghịch cảnh, vượt lên trên những bùn lầy trần tục như sự giải thoát khỏi phiền trược, là tiêu biểu đặc trưng cho tinh thần bất nhiễm trần của đấng Giác ngộ và cũng tượng trưng cho trí tuệ, cho triết lý cao siêu của Phật giáo, nếu không muốn nói thì khi nói tới hoa sen là nói tới Phật tánh, là bồ tát, là thánh nhân.

Hoa sen đã được người bình dân tôn quí để ví với những người có tâm hồn thanh cao, sống nơi bụi trần đầy danh lợi mà không bị những thứ ô uế cám dỗ, ràng buộc:
 
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng;
Nhụy vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

hay trong các bài tán :

Nơi hải hội Liên-trì
Đức Phật A Di Đà
Cùng Quán Âm, Thế Chí
Ngự trên đài hoa sen
Phát thệ nguyện rộng lớn
Tiếp dẫn chúng hữu tình
Nguyện mọi loài chúng sinh
Đồng vãng sinh Cực-lạc
Nam mô Liên Trì Hải Hộ Phật Bồ Tát
DocThemTaiDay

(còn tiếp)

Monday, January 17, 2011

Nguồn Gốc Ngũ Hành Nạp Âm 2


Ðức Phật giáng sinh, theo truyền thuyết vào ngày 8 tháng 2 lich Ân Độ tại vườn Lâm tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ. Song thân Ngài là quốc vương Tinh Phạm và hoàng hậu Ma Da, thuộc dòng dỏi Thich Ca. Một hôm hoàng hậu Ma Da nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà khai hông phải mà chui vào, không bao lâu sau đó, hoàng hâu thụ thai. Các chiêm tinh gia đều cho rằng Hoàng hậu sẽ hạ sanh một hoàng từ tài đức song toàn. Theo người viết thì Bạch tượng tương trưng cho tinh thần Dân chủ, nó không mang ý nghĩa cũa một thể chế chinh trị, mà là tinh thân bỉnh đẳng mọi chúng sinh, về trí thức, đạo đức và tâm linh, là cởi trói mọi xiềng xích, sáu ngà là sáu mủi nhọn tiến công, khai thị chúng sanh trên con đương tiến về Giác Ngô.

Theo tục lệ hoàng hậu sẽ phải về quê ngoại, ở nước Câu Ly chớ ngày sinh nỡ. Trên dường đi Hoàng hậu ghé vào vườn Lâm Tỳ Ni.

Vườn Lâm tỳ ni nằm dưới chân Hy mã lạp sơn, cách thành Ca tỳ la vệ khoảng 25 km về hương Tây, Lúc bấy giờ đang vào mùa trăm hoa đua nỡ, khoe sắc khoe hương thơm ngạt ngào, chim chóc hót vang một vùng trời như khát khao chờ đợi, xa xa tiếng róc rách con suối nhỏ chảy về hối hả, bên kia rặng rừng già vang vọng tiêng kèn gã voi già như thúc dục muôn thú. Hoàng hậu Maya đang nghỉ chân dưới tàng cây vô ưu, nhìn lên những cụm mây trôi lựng thửng trên bầu trới trong xanh, bà thấy ẩn hiện các chư thiên đông đủ quy tụ quanh vườn Lâm tỳ ni, đúng lúc dó cơn chuyển bụng cũng vừa tới. Hoàng hâu Ma Da hạ sanh hoàng tử Tất Đat Đa.

Lẫn trong đám đông, có Đạo sĩ A-tư-đa vái chào Thái tử với thái độ rất cung kính, rồi cười và lại khóc. Ðược hỏi, đạo sĩ trả lời: ông cười mừng là vì Thái tử có 32 tướng tốt, với lòng từ thương xót chúng sanh mà truyền bá chánh pháp trên thế gian này.

«. Thái tử này sẽ chứng
Tối thượng quả Bồ đề
Sẽ chuyển bánh xe pháp
Thấy thanh tịnh tối thắng
Vì lòng từ thương xót
Vì hạnh phúc nhiều người
Và đời sống phạm hạnh
Ðược truyền bá rộng rãi... (Sutta-Nipata, Kinh tập, 101)

Và ông khóc là vì tuổi đã quá cao, không còn sống được bao lâu nữa để trực tiếp được giáo hóa bởi Ðức Thế Tôn tương lai này.
«... Thọ mạng ta ở đời
Còn lại không bao nhiêu
Ðến giữa đời sống Ngài
Ta sẽ bị mệnh chung
Ta không được nghe pháp
Bậc tinh cần vô tỉ
Do vậy ta sầu não
Bất hạnh và khổ đau.... (Kinh tập, 103)

Lời tiên đoán làm Vua Suddhodana lặng lẽ không vui. Trong lễ đặt tên, vua đặt tên con là Siddhattha (Sĩ Ðạt Ða-Tất Ðạt Ða), họ là Gotama (Cồ Ðàm), với hàm ý là kẻ phải giữ chức vụ mà mình phải giữ; còn có nghĩa là người được toại nguyện, mọi việc đều thành tựu. Ý nhà vua là muốn gởi gắm tất cả vương quyền của mình vào đứa con yêu quý này.

Hoàng hậu Màyà qua đời sau 7 ngày hạ sanh Thái tử; vì thế, sự nuôi dưỡng đều được chăm sóc trực tiếp bởi dì Ma Ha Ba Xà Ba Ðề, em ruột của Hoàng hậu Ma Da.

Khi một thánh nhân xuất hiện sẽ có nhưng hiện tượng báo trước, cũng như nhưng sự kiên lạ lùng được phát hiện, là nhưng kinh nghiêm tích lủy từ vô lương kiêp chợt trợ lại. Điễm nỗi bật nhất của Phật giáo là lới Thề nguyện, Hạnh nguyên hay Đại nguyện, đó là chủng tử Thân Khẩu Ý đươc gieo vào A Lai da thức mà một khi khi hội đủ nhân duyên sẽ cùng với công đức tich lủy mà hiển hiện trong kiếp hiên tại. Sự phát hiện "điễm lạ lùng ấy" chỉ là một thể nghiệm cần thiết cho một hiện thực bướt vào giai đoạn mới hay một thử thách hạnh nguyện phát nguyện trước đó.

Thái tử Siddhattha được nuôi nấng và dạy dỗ một cách toàn diện cả hai lãnh vực văn chương và võ thuật; những thầy giáo giỏi nhất trong nước được mời đến hoàng cung để dạy cho Thái tử các môn học đương đại như Thanh minh (ngôn ngữ, văn học), Công xảo minh (công kỹ nghệ học), Y phương minh (y học), Nhân minh (luận lý học) và Nội minh (đạo học); lúc ấy, Ngài vừa tròn 7 tuổi. Về đạo học, Thái tử đã được học 4 thánh điển Veda. Kinh ghi lại rằng, chỉ trong khoảng thời gian từ 7 đến 12 tuổi, Thái tử đã học thông thạo 5 môn học trên.

Về thời niên thiếu của hoàng tử kinh sách có ghi chép lời chính Đức Phật thuật lại như sau:

"Đời sống của ta thật là tế nhị, vô cùng tinh vi. Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây thì sen đỏ vươn mình phô sắc phía bên kia, và trong đầm bên cạnh, sen trắng đua nhau tranh đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng đều là loại thượng hảo hạng từ xứ Kāsi mang đến. Khăn đóng, khăn choàn và y phục, tất cả đều từ xứ Kāsi. Ngày như đêm, mỗi khi ta bước chân ra khỏi cung điện là có tàng lọng che sương đỡ nắng.

"Phụ hoàng cũng kiến tạo riêng cho ta ba tòa cung điện. Một để ở mùa lạnh, một mùa nóng và một, mùa mưa. Trong suốt bốn tháng mưa ta lưu tại một biệt điện có đầy đủ tiện nghi, giữa những cung tần phi nữ. Cho đến hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng được ăn sung mặc sướng chớ không phải như ở các nhà khác, gia đinh chỉ được ăn cơm hẩm và thức ăn cũ." - (Tăng Nhứt A Hàm, phần I, trang 145)

Và chúng ta điều biết, thái tử Tất Đạt Đa từ chối cái định mệnh ngai vàng, cung diện nguy nga, cung tần mỹ nữ, "đời sống tế nhị, vô cùng tinh vi đó" khoác lên mình tấm y vàng, Có phải chăng, trong sâu thẳm tâm thức, bùng lên lời thề nguyên năm xưa, Ngài cùng nô bộc Xa Nặc lên con tuấn mã Kiền Trắc vượt thành ra đi. Lúc đó Ngài được 29 tuổi.

Vào lễ hạ điền, tất cả mọi người, giàu như nghèo, sang như hèn, ăn mặc tốt đẹp để vui chơi hỉ hả một bữa, trước khi bắt tay vào công việc ruộng nương đồng áng. Sáng ngày, đức vua cùng quần thần, áo mão chỉnh tề, ra tận nơi hành lễ. Hoàng Tử Siddhattha cũng được cung phi mỹ nữ đặt trong một cái kiệu, màn che sáo phủ, khiêng ra để dưới bóng mát một cội cây trâm. Hôm ấy đức vua chủ tọa buổi lễ. Thấy mọi người vui vẻ theo dõi cuộc vui, các cung phi có phận sự trông nom hoàng tử cũng lén chạy xem.

Trái hẳn với cảnh nhộn nhịp tưng bừng của buổi lễ, tàn bóng mát mẻ dưới cội trâm và khung cảnh êm đềm như mời mọc suy niệm. Hoàng tử tuổi tuy còn nhỏ nhưng tâm trí đã thuần thục. Khác với những người chỉ biết tìm thích thú trong cuộc lễ, hoàng tử ngồi tréo chân theo lối kiết già, niệm hơi thở, định tâm và đắc Sơ Thiền. Giữa lúc mọi người vui vẻ thưởng thức, các cung phi bỗng sực nhớ lại hoàng tử, vội vã trở về với phận sự. Khi thấy hoàng tử ngồi trầm ngâm hành thiền thì họ lấy làm ngạc nhiên, đến tâu lại tự sự cho vua. Đức vua hối hả đến nơi, thấy hoàng tử vẫn ngồi tham thiền liền đến trước mặt hoàng tử, xá chào con và nói, "Hỡi này con yêu dấu, đây là lần thứ nhì phụ vương đảnh lễ con".

Thái Tử Siddhattha rời hoàng cung tiếp xúc với sanh, già, bệnh, chết, yêu, chia ly, đắt đươc, hận, oán,... nỗi đau khổ của nhân loại ... và mỗi lần trở lại hoàng cung là với băn khoăn ,với lòng trắc ẩn, và cùng tận trong tâm thức, một "chất liệu vô hình" thúc dục Thái Tử không để yên cho Thái Tử an hưởng những lạc thú tạm bợ của đời vương giả khi bên ngoài hoàng cung vang vọng tiếng nhân loại đang trầm luân trong đau khổ. "chất liệu vô hình" đó, một cách nôn na, lòng từ bi vô lượng vô biên hay đúng hơn: Tứ Vô Lượng Tâm đã đến thới kỳ viên mãn.

Như người lang thang bất định, Thái từ Tất Đạt Đa đến học đạo với đạo sĩ Alarama Kalama, bằng trí thông minh xuất chúng, ý chí sắc đá, thái tử đạt tới cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ Thiền, nhưng đạo sĩ Gotama, trong tận cùng thâm tâm vẫn chưa thỏa mãn đáp án cởi bỏ xiềng xích của xâu chuôi nhân duyên, đau khổ, sinh lão bệnh tử, phiền não, ô nhiễm.

Thái từ Tất Đạt Đa đến thọ giáo với một vị đạo sư trứ danh khác tên Uddaka Ramaputta. Không bao lâu, vị đệ tử thông minh xuất chúng Gotama đã thấu triệt giáo lý của thầy và chứng đắc đệ bát thiền Vô Sắc tức là tầng cao nhất của thiền Vô Sắc Giới: cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nhưng vẫn không chứng ngộ được chân lý cao thượng hằng mong mỏi.

Với quyết tâm, sáu năm lặn lội tâm sư học đạo, với thông minh xuất chúng, thái tử không tìm được câu trả lời thỏa đáng.

Dưới gốc bồ đề Thái Tử Siddhattha nhập Định, qua bốn mươi chín ngảy đêm, rồi cuối cùng trong một niệm, bằng trí Bát Nhã, Thái Tử Siddhattha chứng Vô Thượng Bồ Đề. Một sát na then chốt, Thái Tử Siddhattha và Đức Phật không hai không khác.

D.T Suzuki trong thiền luận (Tuệ Sĩ dịch) có đoạn :
(Trich từ Thiền Luận D.T.Suzuki /Đại đức Tuệ Sĩ chuyển dịch)
"Những gì Phật dạy lại các đệ tử chẳng qua chỉ là phần tinh luyện của trí thức Phật nhằm chỉ cho môn đệ thấy và thành những gì Ngài đã thấy và đã thành. Kết quả thuần trí thức ấy, dầu được trình bày dưới hình thức triết lý nào, vẫn không lột được tinh thần của sự tâm chứng ấy của Phật. Bởi vậy, muốn nắm lấy yếu chỉ của Phật giáo - tức nội dung của Giác Ngộ - ta phải sống thân thiết với cảnh giới tự chứng ấy của người mở đạo, vì do sự tự chứng ấy Phật mới là Phật, và là giáo chủ của một hệ thống đạo mang tên Phật. Vậy thử xem kinh điển ghi chép sự chứng nghiệm ấy như thế nào, do đâu mà có, và hậu quả (1) ra sao.

Trong Trường bộ kinh, phẩm Đại bản (2), có đoạn Phật thuyết về sáu vị Phật quá khứ ra đời trước Ngài. Đại khái tiểu sử các vị Bồ Tát và Phật ấy đều hao hao giống như tiểu sử của Phật, trừ vài chi tiết phụ thuộc, vì người ta lập luận rằng chư Phật đều giống nhau hệt ở bổn hạnh. Nên khi Thích Ca, Phật của Kiếp hiện tại, thuyết về chư Phật kiếp quá khứ, thuật lại sự tự giác của các cổ Phật, Thích Ca thật ra chỉ tổng kết lại cuộc giáng sanh của ngài ở cõi trần, và mọi chi tiết Ngài thuật lại về chư cổ Phật đều có thể coi là của chính Ngài, ngoại trừ vài điểm về huyết hệ, giai cấp xã hội, chỗ sanh, thọ mạng, v.v... Nhất là sự tâm chứng của Ngài, gọi là Ngộ (3) càng đặc biệt giống hệt....."

"Đến đây nẩy ra câu hỏi đầy ý nghĩa nhất trong lịch sử Phật Giáo. Thật vậy, thử hỏi cái gì trong sự tâm chứng ấy khiến Phật chiến thắng vô minh, gội sạch hết cảm nhiễm? Cái kiến chiếu ấy là gì phóng vào sự vật khiến Phật thấy những cái từ trước chưa bao giờ thấy? Phải chăng đó là giáo lý “khổ đế” do “ái” và ‘thủ” mà có? Phải chăng đó là giáo lý “nhân quả’ mà Phật đã phăng mối đến tận “vô minh”, coi như nguồn gốc của khổ đau phiền não? Chắc chắn không phải vì vận dụng trí óc nhiều mà Phật ngộ đạo. “Không thể dùng trí suy luận thường mà hiểu được” là câu nói thường gặp luôn trong văn học Phật giáo, Pali và Phạn ngữ. Sự hoan lạc Phật trải qua lúc ấy thật sâu đậm quá, thâm thía quá, và hậu quả vô biên quá, không thể thuộc phạm vi suy luận. Trí suy luận chỉ đủ sức đưa đến một sự thỏa mãn thường khi thắc mắc được đánh tan, nhưng không đủ cương yếu để đi vào chiều sâu của đời sống nội tâm. Không phải tất cả nhà thông thái đều là thánh, mà không phải thánh nào cũng là thông thái. Sự quán tưởng bằng lý trí luật nhân quả của Phật, dầu toàn hảo và tuyệt luân đến mấy, vẫn không chắc gì quyết định được sự chiến thắng vô minh, đau khổ, sanh tử và ô nhiễm."

Đúng vậy," Sự quán tưởng bằng lý trí luật nhân quả của Phật, dầu toàn hảo và tuyệt luân đến mấy, vẫn không chắc gì quyết định được sự chiến thắng vô minh, đau khổ, sanh tử và ô nhiễm". Mà ta phải sống thân thiết với cảnh giới tự chứng ấy của người mở đạo. Cảnh giới tự chứng đó là vô lương kiếp tu hành Bồ Tát Đạo, thực hiện lời Đại nguyện Từ Bi Hỷ Xã. (Tứ Vô Lương Tâm)

(Đoạn sau trích từ http://www.thuvienhoasen.org/tdn-hoanghiem-02B.htm)

Chương 53- Bài học do Bồ tát Phổ hiền dạy "Phương Pháp Hành Bồ Tát Ðạo".

"Thiện Tài chiêm ngưỡng thân tướng của Bồ tát tỏa ánh hào quang sáng ngời soi tỏa khắp mười phương pháp giới, phát ra vô lượng hạnh nguyện Ba la mật thanh tịnh. Bồ tát xoa đầu Thiện Tài nói:

" Người có thấy thần lực của ta chăng? Thuở quá khứ, trong nhiều vi trần số kiếp, ta đã thực hành Bồ Tát Ðạo để thanh tịnh tâm Bồ đề và kính thờ vô lượng chư Phật. Ta ở trong vô số kiếp mà chưa từng có một niệm nhỏ chẳng theo lời giáo huấn của Như Lai. Ta chẳng bao giờ có tâm sân hận và trụ vào ngã và ngã sở, không một sát na nào rời bỏ Bồ đề. Ta chỉ an trụ tâm trong đại bồ đề thượng và dùng tâm đại bi cứu giúp chúng sinh, trang nghiêm cõi Phật. Trong nội tâm và ở ngoài cảnh giới đều xả hết, cho đến cả mạng sống của ta cũng không hề tiếc rẻ. Nếu nói những việc ta đã làm thì vô cùng tận. Ðại dương bát ngát còn có thể cạn khô, chứ những hạnh nguyện của ta bình đẳng, thanh tịnh, tùy thuận chúng sinh mà ứng hiện khắp nơi, làm cho ai nấy đều được an vui, hết khổ.

84.000 pháp môn của Phật dạy, tuy chia ra nhiều bộ phái, tính tướng và lý sự khác nhau, dị biệt ở phần tiểu tiết, nhưng pháp nào cũng chỉ nhằm vào một mục tiêu: cứu khổ chúng sinh, đưa tới giác ngộ, giải thoát cho mình và cho muôn loài." (BTD ,trang1122)
Ðạo Phật là đạo Như Thật, "chuộng sự thực hành, không ưa lý thuyết suông, rườm rà, trừu tượng, chỉ để thỏa mãn óc tò mò của lý trí mà thôi. Ðạo Phật vụ ở hỗ "thân chứng" tức thực nghiệm bản thân, và coi nhẹ những sự hiểu biết qua sách vở, kinh điển, vì HỌC mà không HÀNH thì không thể nào tới được bờ bến Giác, đạt tới Chân lý… "

Và để thực thi "BỒ TÁT ÐẠO, hay Con Ðường Lý Tưởng" được viên mãn, chúng ta hãy nhất tâm phát nguyện:

Chúng sanh vô biên thề nguyện độ
Phiên não vô tận thề nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thề nguyện học
Phật đạo vô thượng thề nguyện thành


Nguồn Gốc Ngũ Hành Nạp Âm 1

(Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.7)









(trích từ Quán Âm Bồ Tác / Thich Viêm Lý)


"" Hiện tướng bản thể vũ trụ là một trò chơi vừa có tính thực và bất thực, hay vừa có tính hòa âm và bất hòa âm. Nếu người biết được trò chơi này, là người nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay; thì trái lại, kẻ không nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay, kẻ đó không biết được hòa âm vũ trụ trong trò chơi này. Nói thế không có nghĩa là bản thể vũ trụ ở trong tình trạng phân sáp làm đôi vàđối lập nhau; nhưng nó chỉ là một. Tuy thế, về mặt tùy thể, chúng ta nhìn bản thể vũ trụ như là một phức thể, tùy theo kiến giác của mỗi chúng ta. Vì tùy thể này, nói lên được sự hiện hữu của duyên nghiệp trong mỗi chúng ta đang ở trong tình trạng sinh khởi, nối tiếp và ràng buộc vào nhau, mà hiện ra các khổ tướng báo thân có sai khác. Nhưng về mặt nhất thể , thì hiện tướng chính là bản thể, và bản thể chính là hiện tướng.

Do đó, cuộc đại hòa âm, hay bất đại hòa âm trong vũ trụ, cũng tùy theo đó mà hiện hữu như một thực tại giữa chúng ta, không thể không chấp nhận. Vì kẻ biết được hay không biết được trò chơi cùng đang nằm trong quỹ đạo của ý niệm, nhưng khi ý niệm vừa khởi lên, liền sau đó phát hiện ra âm thanh hoặc tương đồng hoặc tương khắc với với thế giới âm thanh bên trong hay bên ngoài. Tuy nhiên trong thế giới ngũ trược này, hầu hết chúng sanh đã mang vào trong mỗi tướng thể một khổ quả nào đó, cùng nằm trong một cộng nghiệp không thể tránh khỏi luật tắc luân hồi, đã mang và sẽ đưa chúng sanh vào con đường khổ. Chính vì khổ ngiệp của chúng sanh đang vây khổn mà các đức Phật Thế tôn cùng các vị Bồ tát xuất hiện ra thế gian này, với hạnh nguyện đại từ, đại bi, ban vui cứu khổ cho mọi loài. Cùng ở trong hạnh nguyện đó, sự xuất hiện của Bồ tát Quán Thế Âm được các kinh công nhận là độc đáo nhất trong hạnh nguyện của các vị Bồ tát. Ngài đã chứng ngộ bằng âm thanh qua nhĩ căn viên thông, và lấy âm thanh là tiêu đích trong việc cứu khổ cứu nạn cho tất cả chúng sanh. Với danh hiệu Đại từ đại bi tầm thinh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồt tát, đã nói lên đầy đủ ý nghĩa hạnh nguyện đó.

Trong nhiều bộ kinh, có nói về đức Quán Thế Âm Bồ tát; nhưng chúng ta không thấy đề cập đến phương pháp chứng ngộ của Ngài. Duy bộ kinh Lăng Nghiêm có đề cập đến sự chứng ngộ ấy, kinh Lăng Nghiêm trực chỉ ghi rõ rằng: Sau khi đức Thế tôn gạn hỏi chỗ sở chứng của 24 Thánh đệ tử xong, đến lượt Bồ tát Quán Thế Âm bày tỏ chỗ sở chứng của mình như sau: " Quán Thế Âm Bồ tát bạch rằng: Tôi nhớ là: hà sa số kiếp về trước, có một vị Phật hiệu là Quán Thế Âm; vị Phật đó dạy tôi muốn vào chánh định thì phải theo nghe-nghĩ-tu. Từ trong nghe, khi trở về tự tánh thì sở duyên biến mất và con đường vào trở nên vắng lặng (sở không có, năng không có chỗ duyên, nên năng vẫn không hiện hữu, ở trong tự tánh vắng lặng). Hai tướng động và tịnh không sinh. Từ từ mà tiến lên như vậy, thì nghe và đối tượng bị nghe đều hết. Nghe đã hết không trụ, thì giác và đối tượng của bị giác đều không khi không giác đã tròn đầy, thì không và đối tượng .không đều diệt. Khi sinh và diệt đã mất, thời cảnh tịch diệt hiện ra trước mắt." Thế giới phơi mở trước chúng ta như là một hiện hữu, vượt khỏi không gian thời gian. Cảnh giới này không bị ràng buộc bởi xuất thế gian và thế gian, hay các pháp hữu vi và vô vi. Cảnh giới này trên đồng với Như Lai một từ lực, dưới hợp với tất cả chúng sanh trong sáu đường, và đồng với chúng sanh một lòng bi ngưỡng.

Đến đây, chúng ta thấy hạnh nguyện của Quán Thế Âm trong kinh Lăng Nghiêm cùng kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, gặp nhau trong lòng bi ngưỡng đối với chúng sanh đại thể. Nhưng về ý nghĩa danh từ có sự khác nhau. Trong kinh Lăng Nghiêm ý nghĩa luôn luôn ở trong chiều hướng phản phục cái nghe nơi tự tánh. Như vậy, cái nghe ở trong chiều hướng nội. Một khi tâm đã phản phục, thời cảnh sở quán sẽ không còn, nên không có sự đối đãi giữa năng và sở nữa. Lúc đó Như lai tạng tâm sẽ hiển bày ra trước mắt. Lúc đó tâm năng văn và cảnh sở văn sẽ tiêu tan dung hội. Như vậy kinh Lăng Nghiêm lập cứ trên nhân hạnh mà gọi là Quán Thế Âm. Ngược lại trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn lại lập cứ trên quả đức để hiển nghĩa, thì Âm chính là tiêu đích của văn tầm cứu. Dù là tịch thinh hay là động thinh, nghe của Quán Thế Âm Bồ tát cũng thấu suốt tất cả. Âm thinh từ trạng thái tâm lý đến lúc phát ra ngoài, phải qua một tiến trình chuyển động của cơ thể. Có sự liên hệ giữa một ý niệm khi phát khởi, và các sợi thần kinh liên hệ chuyển động để thoát ra ngoài cửa miệng, lúc đó mới tạo thành âm thanh thật sự. Âm thanh này sẽ dàn trải ra vô tận, và sẽ tạo thành âm thanh sống của vũ trụ. Trong những biến động tiếp giao này, cùng với những âm thanh khác, sẽ tạo ra những điệu hòa âm, hay bất hòa âm, tùy theo lối dung nạp của mỗi âm thanh từng người, từng loại chúng sanh. Ở đây trạng thái tịch thanh không tự hữu, mà chỉ hiện hữu trong mỗi người, mỗi sự vật, chính ngay trong ý niệm, trong mặc thức, không phát ra bên ngoài, hay chưa khởi phát ra ngoài, nhưng nó có tác động của tâm thức can thiệp vào. Ở đây, còn gọi là tâm thanh, là tiếng nói của tâm. ""


Trở lại hệ tám thức:

1. Nhãn thức: sự nhận thức của thị giác - mắt.
2. Nhĩ thức: sự nhận thức của thính giác - tai.
3. Tỷ thức: sự nhận thức của khứu giác - mũi.
4. Thiệt thức: sự nhận thức của vị giác - lưỡi.
5. Thân thức: sự nhận thức của thân giác - cơ thể.

Thức thuộc phi vật thể khi qua "sự vân dụng của Y Lý" thì Thức trở thành Khí, tiến trình này gọi là Khí Hoá, và thông qua các “KHIẾU” mà ta nhận được khi kết hợp Thận, Tỳ,Can,Tâm Phế và Nhãn, nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân.

"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
"Tỳ khai khiếu ở miệng" hay "Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ thuộc thuộc Thổ
"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim

1. Nhãn thức ---> hóa khí--->"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
2. Nhĩ thức---> hóa khí--->"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
3. Tỷ thức---> hóa khí--->"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim
4. Thiệt thức---> hóa khí--->"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
5. Thân thức---> hóa khí--->"Tỳ khai khiếu ở miệng"/" Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ (Thân nhục) thuộc Thổ

Khi qua các KHIẾU, một âm thanh đươc vang lên như con sáo diều vi vu trong chiều lộng gió , cái khác biệt là âm thanh sáo diều là sự thay đội nhanh chóng áp suất trong ngoài Lỗ thổi tạo nên dao dông "không khí" qua Lỗ Thổi và chỉ một chiều từ trong ra ngoài

Khi các thức trước, Nhãn, Nhĩ, Tì, Thiệt, và Thân thức( Phi vật chất, KHÔNG) xuyên qua các Khiếu đươc khí hóa mà thanh Mộc Thủy, Kim, Hỏa, Thổ (Vật chất, SẮC) hay ngược lại, âm thanh do sự biến đổi thuận nghịch này, chỉ có thể nghe qua pháp môn Quán thế Âm, , là "Lắng Nghe" cái "Tự Tâm" và từ cái "Tự Tâm" đó mà Nghe được mọi âm trên thế gian.

"Từ trong nghe, khi trở về tự tánh thì sở duyên biến mất và con đường vào trở nên vắng lặng (sở không có, năng không có chỗ duyên, nên năng vẫn không hiện hữu, ở trong tự tánh vắng lặng). Hai tướng động và tịnh không sinh. Từ từ mà tiến lên như vậy, thì nghe và đối tượng bị nghe đều hết. Nghe đã hết không trụ, thì giác và đối tượng của bị giác đều không khi không giác đã tròn đầy, thì không và đối tượng .không đều diệt. Khi sinh và diệt đã mất, thời cảnh tịch diệt hiện ra trước mắt." Thế giới phơi mở trước chúng ta như là một hiện hữu, vượt khỏi không gian thời gian. Cảnh giới này không bị ràng buộc bởi xuất thế gian và thế gian, hay các pháp hữu vi và vô vi."

Nói như vậy, để đạt tới sự "lắng nghe" cao diệu đó đòi hỏi sự tu tập dài lâu không những trong hiện tại mà còn do sự tích lũy Công Đức trong quá khứ qua vô lượng kiếp tu tập Bổ Tát Đạo. Điễm quan trọng không phải là "lắng nghe" vì chỉ "Lắng nghe" đơn thuần thì kết quả chỉ là "nghe-thấy" đươc "tự tâm" như các đạo sư Thiền thường nói "Trực chỉ chơn Tâm", hay "Kiến Tánh ".

Vượt qua nội tại đó đòi hỏi người tu tập còn phải qua quá trình tu tập Từ Bi Hỷ Xả hay Tứ Vô Lượng Tâm. Vì chỉ có Tứ Vô Lượng Tâm mới có thể "Thanh-Tịnh" cái "Tánh","Chơn Tâm", mà "Tâm Như Lai" hiển lộ. Vì Tứ Vô Lượng Tâm mới có thề dung chứa, hàm chứa mọi chúng sinh, nói khác, là có thể dung chứa tâm chúng sinh vào tâm mình mà "Tri Huệ Bát Nhả" nãy sinh.

Để hiểu rõ hơn "Tâm Như Lai","Tri Huệ Bát Nhả", chúng ta hãy đơn giãn quay trở lại lược sử Đức Phật

(Xem tiếp Nguồn Gốc Ngũ Hành Nạp Âm 2, TVDMNQ bài 4.8)