Total Pageviews

Monday, January 17, 2011

Nguồn Gốc Ngũ Hành Nạp Âm 2


Ðức Phật giáng sinh, theo truyền thuyết vào ngày 8 tháng 2 lich Ân Độ tại vườn Lâm tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ. Song thân Ngài là quốc vương Tinh Phạm và hoàng hậu Ma Da, thuộc dòng dỏi Thich Ca. Một hôm hoàng hậu Ma Da nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà khai hông phải mà chui vào, không bao lâu sau đó, hoàng hâu thụ thai. Các chiêm tinh gia đều cho rằng Hoàng hậu sẽ hạ sanh một hoàng từ tài đức song toàn. Theo người viết thì Bạch tượng tương trưng cho tinh thần Dân chủ, nó không mang ý nghĩa cũa một thể chế chinh trị, mà là tinh thân bỉnh đẳng mọi chúng sinh, về trí thức, đạo đức và tâm linh, là cởi trói mọi xiềng xích, sáu ngà là sáu mủi nhọn tiến công, khai thị chúng sanh trên con đương tiến về Giác Ngô.

Theo tục lệ hoàng hậu sẽ phải về quê ngoại, ở nước Câu Ly chớ ngày sinh nỡ. Trên dường đi Hoàng hậu ghé vào vườn Lâm Tỳ Ni.

Vườn Lâm tỳ ni nằm dưới chân Hy mã lạp sơn, cách thành Ca tỳ la vệ khoảng 25 km về hương Tây, Lúc bấy giờ đang vào mùa trăm hoa đua nỡ, khoe sắc khoe hương thơm ngạt ngào, chim chóc hót vang một vùng trời như khát khao chờ đợi, xa xa tiếng róc rách con suối nhỏ chảy về hối hả, bên kia rặng rừng già vang vọng tiêng kèn gã voi già như thúc dục muôn thú. Hoàng hậu Maya đang nghỉ chân dưới tàng cây vô ưu, nhìn lên những cụm mây trôi lựng thửng trên bầu trới trong xanh, bà thấy ẩn hiện các chư thiên đông đủ quy tụ quanh vườn Lâm tỳ ni, đúng lúc dó cơn chuyển bụng cũng vừa tới. Hoàng hâu Ma Da hạ sanh hoàng tử Tất Đat Đa.

Lẫn trong đám đông, có Đạo sĩ A-tư-đa vái chào Thái tử với thái độ rất cung kính, rồi cười và lại khóc. Ðược hỏi, đạo sĩ trả lời: ông cười mừng là vì Thái tử có 32 tướng tốt, với lòng từ thương xót chúng sanh mà truyền bá chánh pháp trên thế gian này.

«. Thái tử này sẽ chứng
Tối thượng quả Bồ đề
Sẽ chuyển bánh xe pháp
Thấy thanh tịnh tối thắng
Vì lòng từ thương xót
Vì hạnh phúc nhiều người
Và đời sống phạm hạnh
Ðược truyền bá rộng rãi... (Sutta-Nipata, Kinh tập, 101)

Và ông khóc là vì tuổi đã quá cao, không còn sống được bao lâu nữa để trực tiếp được giáo hóa bởi Ðức Thế Tôn tương lai này.
«... Thọ mạng ta ở đời
Còn lại không bao nhiêu
Ðến giữa đời sống Ngài
Ta sẽ bị mệnh chung
Ta không được nghe pháp
Bậc tinh cần vô tỉ
Do vậy ta sầu não
Bất hạnh và khổ đau.... (Kinh tập, 103)

Lời tiên đoán làm Vua Suddhodana lặng lẽ không vui. Trong lễ đặt tên, vua đặt tên con là Siddhattha (Sĩ Ðạt Ða-Tất Ðạt Ða), họ là Gotama (Cồ Ðàm), với hàm ý là kẻ phải giữ chức vụ mà mình phải giữ; còn có nghĩa là người được toại nguyện, mọi việc đều thành tựu. Ý nhà vua là muốn gởi gắm tất cả vương quyền của mình vào đứa con yêu quý này.

Hoàng hậu Màyà qua đời sau 7 ngày hạ sanh Thái tử; vì thế, sự nuôi dưỡng đều được chăm sóc trực tiếp bởi dì Ma Ha Ba Xà Ba Ðề, em ruột của Hoàng hậu Ma Da.

Khi một thánh nhân xuất hiện sẽ có nhưng hiện tượng báo trước, cũng như nhưng sự kiên lạ lùng được phát hiện, là nhưng kinh nghiêm tích lủy từ vô lương kiêp chợt trợ lại. Điễm nỗi bật nhất của Phật giáo là lới Thề nguyện, Hạnh nguyên hay Đại nguyện, đó là chủng tử Thân Khẩu Ý đươc gieo vào A Lai da thức mà một khi khi hội đủ nhân duyên sẽ cùng với công đức tich lủy mà hiển hiện trong kiếp hiên tại. Sự phát hiện "điễm lạ lùng ấy" chỉ là một thể nghiệm cần thiết cho một hiện thực bướt vào giai đoạn mới hay một thử thách hạnh nguyện phát nguyện trước đó.

Thái tử Siddhattha được nuôi nấng và dạy dỗ một cách toàn diện cả hai lãnh vực văn chương và võ thuật; những thầy giáo giỏi nhất trong nước được mời đến hoàng cung để dạy cho Thái tử các môn học đương đại như Thanh minh (ngôn ngữ, văn học), Công xảo minh (công kỹ nghệ học), Y phương minh (y học), Nhân minh (luận lý học) và Nội minh (đạo học); lúc ấy, Ngài vừa tròn 7 tuổi. Về đạo học, Thái tử đã được học 4 thánh điển Veda. Kinh ghi lại rằng, chỉ trong khoảng thời gian từ 7 đến 12 tuổi, Thái tử đã học thông thạo 5 môn học trên.

Về thời niên thiếu của hoàng tử kinh sách có ghi chép lời chính Đức Phật thuật lại như sau:

"Đời sống của ta thật là tế nhị, vô cùng tinh vi. Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây thì sen đỏ vươn mình phô sắc phía bên kia, và trong đầm bên cạnh, sen trắng đua nhau tranh đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng đều là loại thượng hảo hạng từ xứ Kāsi mang đến. Khăn đóng, khăn choàn và y phục, tất cả đều từ xứ Kāsi. Ngày như đêm, mỗi khi ta bước chân ra khỏi cung điện là có tàng lọng che sương đỡ nắng.

"Phụ hoàng cũng kiến tạo riêng cho ta ba tòa cung điện. Một để ở mùa lạnh, một mùa nóng và một, mùa mưa. Trong suốt bốn tháng mưa ta lưu tại một biệt điện có đầy đủ tiện nghi, giữa những cung tần phi nữ. Cho đến hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng được ăn sung mặc sướng chớ không phải như ở các nhà khác, gia đinh chỉ được ăn cơm hẩm và thức ăn cũ." - (Tăng Nhứt A Hàm, phần I, trang 145)

Và chúng ta điều biết, thái tử Tất Đạt Đa từ chối cái định mệnh ngai vàng, cung diện nguy nga, cung tần mỹ nữ, "đời sống tế nhị, vô cùng tinh vi đó" khoác lên mình tấm y vàng, Có phải chăng, trong sâu thẳm tâm thức, bùng lên lời thề nguyên năm xưa, Ngài cùng nô bộc Xa Nặc lên con tuấn mã Kiền Trắc vượt thành ra đi. Lúc đó Ngài được 29 tuổi.

Vào lễ hạ điền, tất cả mọi người, giàu như nghèo, sang như hèn, ăn mặc tốt đẹp để vui chơi hỉ hả một bữa, trước khi bắt tay vào công việc ruộng nương đồng áng. Sáng ngày, đức vua cùng quần thần, áo mão chỉnh tề, ra tận nơi hành lễ. Hoàng Tử Siddhattha cũng được cung phi mỹ nữ đặt trong một cái kiệu, màn che sáo phủ, khiêng ra để dưới bóng mát một cội cây trâm. Hôm ấy đức vua chủ tọa buổi lễ. Thấy mọi người vui vẻ theo dõi cuộc vui, các cung phi có phận sự trông nom hoàng tử cũng lén chạy xem.

Trái hẳn với cảnh nhộn nhịp tưng bừng của buổi lễ, tàn bóng mát mẻ dưới cội trâm và khung cảnh êm đềm như mời mọc suy niệm. Hoàng tử tuổi tuy còn nhỏ nhưng tâm trí đã thuần thục. Khác với những người chỉ biết tìm thích thú trong cuộc lễ, hoàng tử ngồi tréo chân theo lối kiết già, niệm hơi thở, định tâm và đắc Sơ Thiền. Giữa lúc mọi người vui vẻ thưởng thức, các cung phi bỗng sực nhớ lại hoàng tử, vội vã trở về với phận sự. Khi thấy hoàng tử ngồi trầm ngâm hành thiền thì họ lấy làm ngạc nhiên, đến tâu lại tự sự cho vua. Đức vua hối hả đến nơi, thấy hoàng tử vẫn ngồi tham thiền liền đến trước mặt hoàng tử, xá chào con và nói, "Hỡi này con yêu dấu, đây là lần thứ nhì phụ vương đảnh lễ con".

Thái Tử Siddhattha rời hoàng cung tiếp xúc với sanh, già, bệnh, chết, yêu, chia ly, đắt đươc, hận, oán,... nỗi đau khổ của nhân loại ... và mỗi lần trở lại hoàng cung là với băn khoăn ,với lòng trắc ẩn, và cùng tận trong tâm thức, một "chất liệu vô hình" thúc dục Thái Tử không để yên cho Thái Tử an hưởng những lạc thú tạm bợ của đời vương giả khi bên ngoài hoàng cung vang vọng tiếng nhân loại đang trầm luân trong đau khổ. "chất liệu vô hình" đó, một cách nôn na, lòng từ bi vô lượng vô biên hay đúng hơn: Tứ Vô Lượng Tâm đã đến thới kỳ viên mãn.

Như người lang thang bất định, Thái từ Tất Đạt Đa đến học đạo với đạo sĩ Alarama Kalama, bằng trí thông minh xuất chúng, ý chí sắc đá, thái tử đạt tới cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ Thiền, nhưng đạo sĩ Gotama, trong tận cùng thâm tâm vẫn chưa thỏa mãn đáp án cởi bỏ xiềng xích của xâu chuôi nhân duyên, đau khổ, sinh lão bệnh tử, phiền não, ô nhiễm.

Thái từ Tất Đạt Đa đến thọ giáo với một vị đạo sư trứ danh khác tên Uddaka Ramaputta. Không bao lâu, vị đệ tử thông minh xuất chúng Gotama đã thấu triệt giáo lý của thầy và chứng đắc đệ bát thiền Vô Sắc tức là tầng cao nhất của thiền Vô Sắc Giới: cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nhưng vẫn không chứng ngộ được chân lý cao thượng hằng mong mỏi.

Với quyết tâm, sáu năm lặn lội tâm sư học đạo, với thông minh xuất chúng, thái tử không tìm được câu trả lời thỏa đáng.

Dưới gốc bồ đề Thái Tử Siddhattha nhập Định, qua bốn mươi chín ngảy đêm, rồi cuối cùng trong một niệm, bằng trí Bát Nhã, Thái Tử Siddhattha chứng Vô Thượng Bồ Đề. Một sát na then chốt, Thái Tử Siddhattha và Đức Phật không hai không khác.

D.T Suzuki trong thiền luận (Tuệ Sĩ dịch) có đoạn :
(Trich từ Thiền Luận D.T.Suzuki /Đại đức Tuệ Sĩ chuyển dịch)
"Những gì Phật dạy lại các đệ tử chẳng qua chỉ là phần tinh luyện của trí thức Phật nhằm chỉ cho môn đệ thấy và thành những gì Ngài đã thấy và đã thành. Kết quả thuần trí thức ấy, dầu được trình bày dưới hình thức triết lý nào, vẫn không lột được tinh thần của sự tâm chứng ấy của Phật. Bởi vậy, muốn nắm lấy yếu chỉ của Phật giáo - tức nội dung của Giác Ngộ - ta phải sống thân thiết với cảnh giới tự chứng ấy của người mở đạo, vì do sự tự chứng ấy Phật mới là Phật, và là giáo chủ của một hệ thống đạo mang tên Phật. Vậy thử xem kinh điển ghi chép sự chứng nghiệm ấy như thế nào, do đâu mà có, và hậu quả (1) ra sao.

Trong Trường bộ kinh, phẩm Đại bản (2), có đoạn Phật thuyết về sáu vị Phật quá khứ ra đời trước Ngài. Đại khái tiểu sử các vị Bồ Tát và Phật ấy đều hao hao giống như tiểu sử của Phật, trừ vài chi tiết phụ thuộc, vì người ta lập luận rằng chư Phật đều giống nhau hệt ở bổn hạnh. Nên khi Thích Ca, Phật của Kiếp hiện tại, thuyết về chư Phật kiếp quá khứ, thuật lại sự tự giác của các cổ Phật, Thích Ca thật ra chỉ tổng kết lại cuộc giáng sanh của ngài ở cõi trần, và mọi chi tiết Ngài thuật lại về chư cổ Phật đều có thể coi là của chính Ngài, ngoại trừ vài điểm về huyết hệ, giai cấp xã hội, chỗ sanh, thọ mạng, v.v... Nhất là sự tâm chứng của Ngài, gọi là Ngộ (3) càng đặc biệt giống hệt....."

"Đến đây nẩy ra câu hỏi đầy ý nghĩa nhất trong lịch sử Phật Giáo. Thật vậy, thử hỏi cái gì trong sự tâm chứng ấy khiến Phật chiến thắng vô minh, gội sạch hết cảm nhiễm? Cái kiến chiếu ấy là gì phóng vào sự vật khiến Phật thấy những cái từ trước chưa bao giờ thấy? Phải chăng đó là giáo lý “khổ đế” do “ái” và ‘thủ” mà có? Phải chăng đó là giáo lý “nhân quả’ mà Phật đã phăng mối đến tận “vô minh”, coi như nguồn gốc của khổ đau phiền não? Chắc chắn không phải vì vận dụng trí óc nhiều mà Phật ngộ đạo. “Không thể dùng trí suy luận thường mà hiểu được” là câu nói thường gặp luôn trong văn học Phật giáo, Pali và Phạn ngữ. Sự hoan lạc Phật trải qua lúc ấy thật sâu đậm quá, thâm thía quá, và hậu quả vô biên quá, không thể thuộc phạm vi suy luận. Trí suy luận chỉ đủ sức đưa đến một sự thỏa mãn thường khi thắc mắc được đánh tan, nhưng không đủ cương yếu để đi vào chiều sâu của đời sống nội tâm. Không phải tất cả nhà thông thái đều là thánh, mà không phải thánh nào cũng là thông thái. Sự quán tưởng bằng lý trí luật nhân quả của Phật, dầu toàn hảo và tuyệt luân đến mấy, vẫn không chắc gì quyết định được sự chiến thắng vô minh, đau khổ, sanh tử và ô nhiễm."

Đúng vậy," Sự quán tưởng bằng lý trí luật nhân quả của Phật, dầu toàn hảo và tuyệt luân đến mấy, vẫn không chắc gì quyết định được sự chiến thắng vô minh, đau khổ, sanh tử và ô nhiễm". Mà ta phải sống thân thiết với cảnh giới tự chứng ấy của người mở đạo. Cảnh giới tự chứng đó là vô lương kiếp tu hành Bồ Tát Đạo, thực hiện lời Đại nguyện Từ Bi Hỷ Xã. (Tứ Vô Lương Tâm)

(Đoạn sau trích từ http://www.thuvienhoasen.org/tdn-hoanghiem-02B.htm)

Chương 53- Bài học do Bồ tát Phổ hiền dạy "Phương Pháp Hành Bồ Tát Ðạo".

"Thiện Tài chiêm ngưỡng thân tướng của Bồ tát tỏa ánh hào quang sáng ngời soi tỏa khắp mười phương pháp giới, phát ra vô lượng hạnh nguyện Ba la mật thanh tịnh. Bồ tát xoa đầu Thiện Tài nói:

" Người có thấy thần lực của ta chăng? Thuở quá khứ, trong nhiều vi trần số kiếp, ta đã thực hành Bồ Tát Ðạo để thanh tịnh tâm Bồ đề và kính thờ vô lượng chư Phật. Ta ở trong vô số kiếp mà chưa từng có một niệm nhỏ chẳng theo lời giáo huấn của Như Lai. Ta chẳng bao giờ có tâm sân hận và trụ vào ngã và ngã sở, không một sát na nào rời bỏ Bồ đề. Ta chỉ an trụ tâm trong đại bồ đề thượng và dùng tâm đại bi cứu giúp chúng sinh, trang nghiêm cõi Phật. Trong nội tâm và ở ngoài cảnh giới đều xả hết, cho đến cả mạng sống của ta cũng không hề tiếc rẻ. Nếu nói những việc ta đã làm thì vô cùng tận. Ðại dương bát ngát còn có thể cạn khô, chứ những hạnh nguyện của ta bình đẳng, thanh tịnh, tùy thuận chúng sinh mà ứng hiện khắp nơi, làm cho ai nấy đều được an vui, hết khổ.

84.000 pháp môn của Phật dạy, tuy chia ra nhiều bộ phái, tính tướng và lý sự khác nhau, dị biệt ở phần tiểu tiết, nhưng pháp nào cũng chỉ nhằm vào một mục tiêu: cứu khổ chúng sinh, đưa tới giác ngộ, giải thoát cho mình và cho muôn loài." (BTD ,trang1122)
Ðạo Phật là đạo Như Thật, "chuộng sự thực hành, không ưa lý thuyết suông, rườm rà, trừu tượng, chỉ để thỏa mãn óc tò mò của lý trí mà thôi. Ðạo Phật vụ ở hỗ "thân chứng" tức thực nghiệm bản thân, và coi nhẹ những sự hiểu biết qua sách vở, kinh điển, vì HỌC mà không HÀNH thì không thể nào tới được bờ bến Giác, đạt tới Chân lý… "

Và để thực thi "BỒ TÁT ÐẠO, hay Con Ðường Lý Tưởng" được viên mãn, chúng ta hãy nhất tâm phát nguyện:

Chúng sanh vô biên thề nguyện độ
Phiên não vô tận thề nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thề nguyện học
Phật đạo vô thượng thề nguyện thành


Nguồn Gốc Ngũ Hành Nạp Âm 1

(Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.7)









(trích từ Quán Âm Bồ Tác / Thich Viêm Lý)


"" Hiện tướng bản thể vũ trụ là một trò chơi vừa có tính thực và bất thực, hay vừa có tính hòa âm và bất hòa âm. Nếu người biết được trò chơi này, là người nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay; thì trái lại, kẻ không nắm được thực tại trên mười đầu ngón tay, kẻ đó không biết được hòa âm vũ trụ trong trò chơi này. Nói thế không có nghĩa là bản thể vũ trụ ở trong tình trạng phân sáp làm đôi vàđối lập nhau; nhưng nó chỉ là một. Tuy thế, về mặt tùy thể, chúng ta nhìn bản thể vũ trụ như là một phức thể, tùy theo kiến giác của mỗi chúng ta. Vì tùy thể này, nói lên được sự hiện hữu của duyên nghiệp trong mỗi chúng ta đang ở trong tình trạng sinh khởi, nối tiếp và ràng buộc vào nhau, mà hiện ra các khổ tướng báo thân có sai khác. Nhưng về mặt nhất thể , thì hiện tướng chính là bản thể, và bản thể chính là hiện tướng.

Do đó, cuộc đại hòa âm, hay bất đại hòa âm trong vũ trụ, cũng tùy theo đó mà hiện hữu như một thực tại giữa chúng ta, không thể không chấp nhận. Vì kẻ biết được hay không biết được trò chơi cùng đang nằm trong quỹ đạo của ý niệm, nhưng khi ý niệm vừa khởi lên, liền sau đó phát hiện ra âm thanh hoặc tương đồng hoặc tương khắc với với thế giới âm thanh bên trong hay bên ngoài. Tuy nhiên trong thế giới ngũ trược này, hầu hết chúng sanh đã mang vào trong mỗi tướng thể một khổ quả nào đó, cùng nằm trong một cộng nghiệp không thể tránh khỏi luật tắc luân hồi, đã mang và sẽ đưa chúng sanh vào con đường khổ. Chính vì khổ ngiệp của chúng sanh đang vây khổn mà các đức Phật Thế tôn cùng các vị Bồ tát xuất hiện ra thế gian này, với hạnh nguyện đại từ, đại bi, ban vui cứu khổ cho mọi loài. Cùng ở trong hạnh nguyện đó, sự xuất hiện của Bồ tát Quán Thế Âm được các kinh công nhận là độc đáo nhất trong hạnh nguyện của các vị Bồ tát. Ngài đã chứng ngộ bằng âm thanh qua nhĩ căn viên thông, và lấy âm thanh là tiêu đích trong việc cứu khổ cứu nạn cho tất cả chúng sanh. Với danh hiệu Đại từ đại bi tầm thinh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồt tát, đã nói lên đầy đủ ý nghĩa hạnh nguyện đó.

Trong nhiều bộ kinh, có nói về đức Quán Thế Âm Bồ tát; nhưng chúng ta không thấy đề cập đến phương pháp chứng ngộ của Ngài. Duy bộ kinh Lăng Nghiêm có đề cập đến sự chứng ngộ ấy, kinh Lăng Nghiêm trực chỉ ghi rõ rằng: Sau khi đức Thế tôn gạn hỏi chỗ sở chứng của 24 Thánh đệ tử xong, đến lượt Bồ tát Quán Thế Âm bày tỏ chỗ sở chứng của mình như sau: " Quán Thế Âm Bồ tát bạch rằng: Tôi nhớ là: hà sa số kiếp về trước, có một vị Phật hiệu là Quán Thế Âm; vị Phật đó dạy tôi muốn vào chánh định thì phải theo nghe-nghĩ-tu. Từ trong nghe, khi trở về tự tánh thì sở duyên biến mất và con đường vào trở nên vắng lặng (sở không có, năng không có chỗ duyên, nên năng vẫn không hiện hữu, ở trong tự tánh vắng lặng). Hai tướng động và tịnh không sinh. Từ từ mà tiến lên như vậy, thì nghe và đối tượng bị nghe đều hết. Nghe đã hết không trụ, thì giác và đối tượng của bị giác đều không khi không giác đã tròn đầy, thì không và đối tượng .không đều diệt. Khi sinh và diệt đã mất, thời cảnh tịch diệt hiện ra trước mắt." Thế giới phơi mở trước chúng ta như là một hiện hữu, vượt khỏi không gian thời gian. Cảnh giới này không bị ràng buộc bởi xuất thế gian và thế gian, hay các pháp hữu vi và vô vi. Cảnh giới này trên đồng với Như Lai một từ lực, dưới hợp với tất cả chúng sanh trong sáu đường, và đồng với chúng sanh một lòng bi ngưỡng.

Đến đây, chúng ta thấy hạnh nguyện của Quán Thế Âm trong kinh Lăng Nghiêm cùng kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, gặp nhau trong lòng bi ngưỡng đối với chúng sanh đại thể. Nhưng về ý nghĩa danh từ có sự khác nhau. Trong kinh Lăng Nghiêm ý nghĩa luôn luôn ở trong chiều hướng phản phục cái nghe nơi tự tánh. Như vậy, cái nghe ở trong chiều hướng nội. Một khi tâm đã phản phục, thời cảnh sở quán sẽ không còn, nên không có sự đối đãi giữa năng và sở nữa. Lúc đó Như lai tạng tâm sẽ hiển bày ra trước mắt. Lúc đó tâm năng văn và cảnh sở văn sẽ tiêu tan dung hội. Như vậy kinh Lăng Nghiêm lập cứ trên nhân hạnh mà gọi là Quán Thế Âm. Ngược lại trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn lại lập cứ trên quả đức để hiển nghĩa, thì Âm chính là tiêu đích của văn tầm cứu. Dù là tịch thinh hay là động thinh, nghe của Quán Thế Âm Bồ tát cũng thấu suốt tất cả. Âm thinh từ trạng thái tâm lý đến lúc phát ra ngoài, phải qua một tiến trình chuyển động của cơ thể. Có sự liên hệ giữa một ý niệm khi phát khởi, và các sợi thần kinh liên hệ chuyển động để thoát ra ngoài cửa miệng, lúc đó mới tạo thành âm thanh thật sự. Âm thanh này sẽ dàn trải ra vô tận, và sẽ tạo thành âm thanh sống của vũ trụ. Trong những biến động tiếp giao này, cùng với những âm thanh khác, sẽ tạo ra những điệu hòa âm, hay bất hòa âm, tùy theo lối dung nạp của mỗi âm thanh từng người, từng loại chúng sanh. Ở đây trạng thái tịch thanh không tự hữu, mà chỉ hiện hữu trong mỗi người, mỗi sự vật, chính ngay trong ý niệm, trong mặc thức, không phát ra bên ngoài, hay chưa khởi phát ra ngoài, nhưng nó có tác động của tâm thức can thiệp vào. Ở đây, còn gọi là tâm thanh, là tiếng nói của tâm. ""


Trở lại hệ tám thức:

1. Nhãn thức: sự nhận thức của thị giác - mắt.
2. Nhĩ thức: sự nhận thức của thính giác - tai.
3. Tỷ thức: sự nhận thức của khứu giác - mũi.
4. Thiệt thức: sự nhận thức của vị giác - lưỡi.
5. Thân thức: sự nhận thức của thân giác - cơ thể.

Thức thuộc phi vật thể khi qua "sự vân dụng của Y Lý" thì Thức trở thành Khí, tiến trình này gọi là Khí Hoá, và thông qua các “KHIẾU” mà ta nhận được khi kết hợp Thận, Tỳ,Can,Tâm Phế và Nhãn, nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân.

"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
"Tỳ khai khiếu ở miệng" hay "Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ thuộc thuộc Thổ
"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim

1. Nhãn thức ---> hóa khí--->"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
2. Nhĩ thức---> hóa khí--->"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
3. Tỷ thức---> hóa khí--->"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim
4. Thiệt thức---> hóa khí--->"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
5. Thân thức---> hóa khí--->"Tỳ khai khiếu ở miệng"/" Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ (Thân nhục) thuộc Thổ

Khi qua các KHIẾU, một âm thanh đươc vang lên như con sáo diều vi vu trong chiều lộng gió , cái khác biệt là âm thanh sáo diều là sự thay đội nhanh chóng áp suất trong ngoài Lỗ thổi tạo nên dao dông "không khí" qua Lỗ Thổi và chỉ một chiều từ trong ra ngoài

Khi các thức trước, Nhãn, Nhĩ, Tì, Thiệt, và Thân thức( Phi vật chất, KHÔNG) xuyên qua các Khiếu đươc khí hóa mà thanh Mộc Thủy, Kim, Hỏa, Thổ (Vật chất, SẮC) hay ngược lại, âm thanh do sự biến đổi thuận nghịch này, chỉ có thể nghe qua pháp môn Quán thế Âm, , là "Lắng Nghe" cái "Tự Tâm" và từ cái "Tự Tâm" đó mà Nghe được mọi âm trên thế gian.

"Từ trong nghe, khi trở về tự tánh thì sở duyên biến mất và con đường vào trở nên vắng lặng (sở không có, năng không có chỗ duyên, nên năng vẫn không hiện hữu, ở trong tự tánh vắng lặng). Hai tướng động và tịnh không sinh. Từ từ mà tiến lên như vậy, thì nghe và đối tượng bị nghe đều hết. Nghe đã hết không trụ, thì giác và đối tượng của bị giác đều không khi không giác đã tròn đầy, thì không và đối tượng .không đều diệt. Khi sinh và diệt đã mất, thời cảnh tịch diệt hiện ra trước mắt." Thế giới phơi mở trước chúng ta như là một hiện hữu, vượt khỏi không gian thời gian. Cảnh giới này không bị ràng buộc bởi xuất thế gian và thế gian, hay các pháp hữu vi và vô vi."

Nói như vậy, để đạt tới sự "lắng nghe" cao diệu đó đòi hỏi sự tu tập dài lâu không những trong hiện tại mà còn do sự tích lũy Công Đức trong quá khứ qua vô lượng kiếp tu tập Bổ Tát Đạo. Điễm quan trọng không phải là "lắng nghe" vì chỉ "Lắng nghe" đơn thuần thì kết quả chỉ là "nghe-thấy" đươc "tự tâm" như các đạo sư Thiền thường nói "Trực chỉ chơn Tâm", hay "Kiến Tánh ".

Vượt qua nội tại đó đòi hỏi người tu tập còn phải qua quá trình tu tập Từ Bi Hỷ Xả hay Tứ Vô Lượng Tâm. Vì chỉ có Tứ Vô Lượng Tâm mới có thể "Thanh-Tịnh" cái "Tánh","Chơn Tâm", mà "Tâm Như Lai" hiển lộ. Vì Tứ Vô Lượng Tâm mới có thề dung chứa, hàm chứa mọi chúng sinh, nói khác, là có thể dung chứa tâm chúng sinh vào tâm mình mà "Tri Huệ Bát Nhả" nãy sinh.

Để hiểu rõ hơn "Tâm Như Lai","Tri Huệ Bát Nhả", chúng ta hãy đơn giãn quay trở lại lược sử Đức Phật

(Xem tiếp Nguồn Gốc Ngũ Hành Nạp Âm 2, TVDMNQ bài 4.8)

Sunday, January 9, 2011

Nguồn Gốc Ngũ Hành Nạp Âm

(Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.6)




Âm nhạc là gì? Là sự kết hợp có nghệ thuật của Động và Tỉnh . Ở một khoảng nào đó, tiếng động có tần số 64HZ-23,000HZ, con ngưởi thu nhân đươc qua thính giác và gọi sự kết hợp có nghệ thuật đó là âm nhạc của loài người. Với súc vật dao động trong khoảng 16HZ(voi) - 150.000 HZ (một loại cá heo, porpoise), ngoài khả năng “nghe thấy” của loài người chắc hẳn cũng mang nhịp điệu âm nhạc.


Nghệ thuật ở đây là môt sự kết hợp khéo léo tài tình những phương tiên tạo âm kèn, trống, sáo, .., để diễn đạt một trạng thái tâm ý, vui buồn, trầm tư, nỗi loạn,.. Âm thanh dùng trong âm nhạc thường có bốn đặc tính: cao độ, trường độ, cường độ và âm sắc, (tiếng ca, đàn dương cầm, đàn vĩ cầm, đàn ghita, sáo, kèn, đàn tranh, đàn bầu,.. cùng tấu lên một đoạn nhạc ở cùng một độ cao, do sắc thái khác nhau mà tai ta phân biệt được tiếng của từng nhac sĩ, nhạc cụ … Đặc tính này gọi là âm sắc.)

Tuy nhiên, từ khi phim (bộ) xuất hiện thì thâm chí tiếng chó sủa, mèo cào, bom rơi, đạn bay ... cũng được lồng theo dòng nhạc chính,(Do Re Mi Fa Sol La Si , / Họ Xữ Xàng Xe Cống Liêu,/Cung Thương Giốc Chủy Vũ) , tạo nên một phong cách mới trong hỉnh thức soạn nhạc. Không một tiếng động nào không thể xử dụng như là một nhạc khí nhằm diễn đạt một cách sống động một trạng thái tâm ý vui buồn, trầm tư, nội loạn ... Nói khác nhà soạn nhac phim bộ đã đem lại "chiều thứ ba" cho âm nhac thuần túy, hay âm nhạc vũ trụ thu hẹp.


Tiến xa hơn, bên ngoài khoảng thu nhận thính giác, Động -Tỉnh của vũ trụ hay âm nhạc của vũ trụ mang tinh cách vỉ mô như sự va chạm của vẫn thạch, tiếng chuyển mình của một ngôi sao vừa tạo lập, tiếng gảo thét của vật chất đang cuốn về lỗ đen, ở thế giới vi mô tiêng rít lên của năng lương, alpha, beta, gamma… đươc phóng thich từ phân tử Uranium 238, Thorium 234, C14… đang tự hủy hoại, hay nhịp điệu sóng điên từ từ các ngôi sao xa gần…


Trờ lại phần âm nhạc thuần túy loài người


http://hailinhquehuong.net/Nhacly_canban/nhacly_qh_4caodo.html

(Trích)
1- Quãng nhạc là khoảng cách âm thanh giữa 2 dấu nhạc. Tên quãng được gọi bằng số. Từ dấu nhạc đầu tiên đến dấu nhạc cuối có bao nhiêu bậc cơ bản thì là quãng bấy nhiêu.
Thí dụ : Đô-Mi : Có 3 bậc là đô, rê, mi, nên gọi là quãng 3.
Tính chất các quãng : Ngoài tên gọi bằng số, các quãng nhạc còn có tính chất đúng, trưởng, thứ, tăng, bội, giảm tuỳ theo số nửa cung được thêm hay bớt trong cùng một quãng nhạc.
2- Thang âm là chuỗi các âm thanh liên tiếp nhau trong vòng một quãng 8. Có nhiều loại thang âm khác nhau tuỳ theo số lượng các bậc cơ bản (chẳng hạn thang ngũ âm có 5 bậc cơ bản, thang thất âm có 7 bậc cơ bản) và tuỳ theo khoảng cách độ cao giữa các bậc cơ bản (chẳng hạn thang ngũ âm thông thường và ngũ âm ngoại thường, thang thất âm trong bình ca và thất âm trong nhạc cổ điển).

Khoảng cách về cao độ tương đối giữa các bậc không đồng đều nhau.

Khoảng cách nhỏ nhất trong thất âm gọi là nửa cung : Mi - Fa và Si - Đô.

Khoảng cách lớn nhất giữa hai bậc cơ bản đi liền nhau gọi là nguyên cung : Đô - Rê, Rê - Mi, Fa - Sol, Sol - La, La – Si

Như vậy khoảng cách âm thanh giữa Đô thấp và Đô cao kế tiếp gồm 12 nửa cung, hoặc 6 nguyên cung. Nói cách khác, quãng tám (Đồ - thấp và Đố - cao) gồm 12 âm cách nhau đều đặn từng nửa cung một.

++ theo GS Trần văn Khê :


Trong thang âm Việt Nam hoàn toàn chỉ có ngũ cung ( 5 nốt nhạc trong một bát độ)

Có 5 thang âm không bán cung căn bản :

1. Do – Re – Mi- Sol – La – Do

2. Do – Re – Fa – Sol – La – Do

3. Do – Re – Fa – Sol – Sib – Do

4. Do – Mib – Fa – Sol – Sib – Do

5. Do – Mib – Fa – Lab – Sib – Do

Ngoài ra còn có những thang âm đặc thù như :

thang âm vọng cổ Do – Mi b+ - Fa – Sol – La – Do

Thang âm Sa Mạc Do – Mib+ - Fa – Sol – Sib – Do

Trong nhạc sắc tộc Gia Rai , Ba-Na vùng Cao nguyên Trung phần có một thang âm ngũ cung có bán cung Do – Mi – Fa – Sol – Si – Do

++ Theo Âm Nhạc Cổ Truyền Huế Và Âm La Chuẩn Quốc Tế A=440 cps, Nguyễn Đức Mai


Nhạc ngũ âm Việt Nam:
Thật ra hệ thống ngũ âm là hệ thống chung của cả nhạc tây Phương lẫn nhạc Việt Nam . Bài hát tạm biệt Auld Lang Syne (Ce n'est qu'un au revoir) mà cả thế giới đều biết là một bài hoàn toàn ngũ âm giống hệt nhạc cổ Việt Nam .
Should our ac - quaint - ance be for - got and ne - ver brought to mind ? C F F F A G F G A F A A C D Họ Xàng Xàng Xàng Cống Xê Xàng Xê Cống Xàng Cống Cống Liu Ú
Should our ac - quaint - ance be for - got and days of auld lang syne D C A A F G F G A F D D C F Ú Liu Cống Cống Xàng Xê Xàng Xê Cống Xàng Xự Xự Họ Xàng
For auld lang syne my dear for auld lang syne D C A - F G F G D C A - C D Ú Liu Cống Xàng Xê Xàng Xê Ú Liu Cống Liu Ú
We'll take a cup of kindness yet for days of auld lang syne F C A A F G F G A F D D C F Xáng Liu Cống Cống Xàng Xê Xàng Xê Cống Xàng Xự Xự Họ Xàng


Âm nhạc phát xuất từ tiếng nói và mọi người Việt Nam dù muốn hay không, có ý thức hay hoàn toàn không hay biết, đều mang sẵn nhạc ngũ cung trong huyết quản của mình . Nhiều nhạc sĩ đã viết lên những ca khúc đượm tình dân tộc được mọi người ưa chuộng và còn tồn tại mãi mãi với dân tộc là chính vì viết theo ngũ cung mà chính người sáng tác cũng không biết . Các bài Em Bé Quê của Phạm Duy, Hòn Vọng Phu I và III của Lê Thương và rất nhiều bài thành công khác nữa đều viết theo nhạc ngũ cung .
Năm 1971, Linh Mục Đỗ Bá Công và tôi đã thành lập Ca đoàn Hợp Xướng Sinh Viên SÔNG HƯƠNG . Chúng tôi mời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, lúc đó ở Huế tham gia sinh hoạt với ca đoàn với tư cách là cố vấn nghệ thuật . Trong một lần sinh hoạt, bạn Sơn sáng tác ngay tại chỗ một ca khúc ngắn cho các sinh viên trong ca đoàn cùng hát . Bài hát rất dễ thương, mang tính chất triết lý sâu sắc Phật giáo mà về sau ai cũng nhớ, trở thành rất được ưa thích và phổ biến tại Huế thời đó .
Chính Trịnh Công Sơn cũng không biết là mình viết theo nhạc ngũ cung Huế - cũng như bài Nối Vòng Tay Lớn viết theo điệu nhạc chầu văn Huế - cho đến khi được tôi cho biết và chứng minh cụ thể . Bài đó như sau (tôi không biết về sau này bạn Sơn đặt tên bài đó là gì):


Đâu có đâu em nầy, đâu có cái chết đầu tiên F A G F - D C F A A A F G Xàng Cống Xê Xàng-Xự Họ Xàng Cống Cống Cống Xàng Xê
Và có đâu bao giờ, đâu có cái chết sau cùng F A G F - D C F A A A G F Xàng Cống Xê Xàng-Xự Họ Xàng Cống Cống Cống Xê Xàng
Tự mình biết riêng mình C F A - G F D - C Họ Xàng Cống-Xê Xàng Xự-Họ
Và ta biết riêng ta C F A G - F F Họ Xàng Cống Xê-Xàng Xàng


Nhạc ngũ âm Việt Nam và âm chuẩn quốc tế A=440cps
Có người nói rằng mọi người Việt Nam từ lúc sinh ra đều đã là bậc thầy về thẩm âm . Ðiều này có cơ sở vì tiếng Việt có sáu thanh, mà người Việt nào cũng phân biệt được rõ ràng không nhầm lẫn . Một giáo sư ngôn ngữ học người Mỹ đã phải mất gần sáu tháng trời mới phân biệt chính xác các từ sau đây trong một bài tập về thẩm âm : Ma (Ghost) - Mà (But) - Má (Cheek) - Mạ (Young rice plant) - Mả (Tomb) - Mã (Horse) .


Do ưu điểm này về thẩm âm mà trong âm nhạc, người Việt Nam không cần có âm chuẩn . Họ có thể chơi và thưởng thức ca nhạc ở bất cứ cao độ (pitch) nào cũng được trong khi nhạc Tây phương chỉ có 12 bậc trong thang âm bán cung (chromatic scale) .


Với những người đã quen nghe nhạc mới và nhạc Tây phương với âm chuẩn A=440cps, thì khi nghe nhạc cổ truyền Việt Nam, khó lòng thưởng thức nổi . Vì nhận ra điều này và cũng vì mục đích nghiên cứu, muốn tiện ghi lại bằng ký âm pháp Tây phương, tôi đã dùng nhiều phương cách để đưa các tài liệu nhạc cổ Huế về đúng âm chuẩn.


Trong các cuộc trình diễn, tôi luôn luôn yêu cầu các nhạc công lên dây đàn đúng theo âm chuẩn, thường là bằng cây hắc tiêu (clarinet) mà tôi có . Hai bậc thiệt dùng trong cổ nhạc là Họ 1, tức là Họ = C và Họ 5, tức Họ = G
Bậc thiệt (không thăng, không giáng):
Họ Xự Xàng Xê Cống
Họ 1 C D F G A
( 1 ((11/2(( 1 (( 1 (
Họ Xự Xàng Xê Cống
Họ 5 G A C D E
( 1 ((11/2 (( 1 (( 1 (


Bậc Họ 1 có thể sử dụng cho các ban nhạc không có đàn Tranh . Khi có đàn Tranh thì nên sử dụng bậc Họ 5 vì dây số 1 là dây thấp nhất của đàn Tranh là dây G thấp . Khi có Sáo, thường là Sáo Ðô, thì đàn nên lên dây Họ 1 và không dùng đàn Tranh . Có đàn Tranh thì phải dùng Sáo Xôn . Ðối với người thổi sáo bậc (như đã nói đến trong bài "Tôi và Chiếc Sáo Tre Việt Nam" đăng ở TK21 số 118 & 119 Xuân Kỷ Mão) mà ngày nay không thấy còn ai, thì đàn lên dây theo bậc nào cũng được .
Nhờ lối lên dây đàn theo âm chuẩn này mà nhiều người bỗng thấy nhạc Huế do tôi tổ chức trình diễn nghe hay hơn nhiều.
Trong số những người nói cho tôi biết điều này có Ông Ngô Khắc Tỉnh - lúc đó là Tổng Trưởng Giáo Dục và nhạc sĩ dương cầm Jacob Feurring. Ðối với các tài liệu đã thu băng sẵn mà không theo âm chuẩn, tôi dùng các máy chạy băng từ có phần điều chỉnh cao độ (pitch control) để chỉnh lại cho đúng âm chuẩn và in lại sang băng mới để dùng cho nghe và nghiên cứu.
Tóm lại nhạc Huế có toàn bộ 36 bậc, như sau :
Bậc thiệt (không thăng, không giáng):
Họ Xự Xàng Xê Cống
Họ 1 C D F G A
( 1 ((11/2(( 1 (( 1 (
Họ Xự Xàng Xê Cống
Họ 5 G A C D E
( 1 ((11/2 (( 1 (( 1 (
Thang bậc bán âm:
Bậc 1 C D F G A
Bậc 2 C# D# F# G# Bb
Bậc 3 D E G A B
Bậc 4 D# F G# Bb C
Bậc 5 E F# A B C#
Bậc 6 F G Bb C D
Bậc 7 F# G# B C# D#
Bậc 8 G A C D E
Bậc 9 G# Bb C# D# F
Bậc 10 A B D E F#
Bậc 11 Bb C D# F G
Bậc 12 B C# E F# G#


Cọng thêm 24 bậc phụ với các khoảng sai biệt 1/4 và 3/4 nốt .
Khi chỉnh theo âm chuẩn quốc tế A=440 cps, ta nên dùng 12 bậc chính như sau:
Bậc 1 C D F G A
Bậc 2 C# D# F# G# Bb
Bậc 3 D E G A B
Bậc 4 D# F G# Bb C
Bậc 5 E F# A B C#
Bậc 6 F G Bb C D
Bậc 7 F# G# B C# D#
Bậc 8 G A C D E
Bậc 9 G# Bb C# D# F
Bậc 10 A B D E F#
Bậc 11 Bb C D# F G
Bậc 12 B C# E F# G#

++ Tìm hiều thêm tại http://viet-guitar.vn/forum/index.php?showtopic=18204


Hợp âm (Chord) là sự tập hợp các âm theo quy luật nhất định. Nền tảng để tạo nên hợp âm là các quãng 3. Có 2 loại quãng 3 là quãng 3 trưởng (ký hiệu 3T) và quãng 3 thứ (ký hiệu 3t). Quãng 3 trưởng có nội hàm là 2 cung. Quãng 3 thứ là 1,5 cung. Lấy ví dụ trên hợp âm Đô trưởng (gồm 3 nốt Đồ Mi Sol): Âm Đồ được gọi là âm gốc (bậc 1) Âm Mi gọi là âm giữa (bậc 3 tính từ Đồ) Âm Sol gọi là âm ngọn (bậc 4 tính từ đồ) Ta thấy khoảng cách từ âm Đồ (bậc 1) tới âm Mi (bậc 3) là quãng 3 trưởng (= 2 cung ) Khoảng cách âm Mi tới Sol (bậc 5) là quãng 3 thứ (= 1,5 cung). Như vậy ta thấy tập hợp các âm theo quãng 3 (tính từ âm gốc bậc 1) theo nguyên tắc 3 trưởng+ 3 thứ (3T + 3t) đó chính là công thức để xác định tất cả các hợp âm trưởng.
4. Cấu tạo của hợp âm: Trưởng: +2+1.5 (C: Đồ-mi-sol) Thứ: +1.5+2 (Am: La-si-đô) Bảy: +2+1.5+1.5 (G7: Sol-si-rê-fa)


*Cách phối âm lạ:
Cách này nghe có vẻ giống như cách trên nhưng thật ra có khác chút ít. Bởi vì cách phối âm ở đây mang nghĩa rộng lớn hơn việc sử dụng hợp âm nghịch rất nhiều.
Trong trường phái nhạc ấn tượng (impressionism), một số nhạc sĩ như Ravel, Glinka, Debussy đã sáng tác ra một thang âm của riêng họ. Trong nhạc của Grieg đôi khi cũng thấy xuất hiện âm hưởng này.
Theo đó thang âm này gồm: C-D-E-F#-G#-A#-C.
Điểm khác biệt lớn nhất của thang âm này so với thang âm cổ điển đó là các cao độ luôn cách liền nhau 1cung, hoàn toàn không có những nửa cung như mi-fa hay si-do. Khi thang âm này được sáng tạo ra, thời ấy nó đã bị phản đối rất dữ dội. Bởi vì người ta cho là nó làm thoái trào tinh hoa của hòa âm cổ điển vốn đã tồn tại mấy trăm năm. Nhưng đến giờ người ta đã công nhận cái hay của nó như một trường phái: trường phái ấn tượng.


Một số nền văn hóa trên thế giới có những thang âm rất riêng biệt mà nó làm ra tính đặc trưng của mỗi dân tộc. Nền âm nhạc của Hội Thánh Công Giáo La Mã, mà nhất là trong thể bình ca (Gegrolian) phát triển thịnh đạt vào thời trung cổ, người ta sử dụng những cách phối âm rất kỳ lạ, người ta sử dụng cách chuyển từ một hợp âm thứ qua một hợp âm thứ tương ứng. (vd: Em-->Am hay C#m-->F#m). Cách chuyển này thật sự đã tạo ra một cảm xúc rất khác. Bởi vì tính chất của hợp âm nghịch đó là sự xung đột và mâu thuẫn. Nhưng ở đây, người ta không dùng hợp âm nghịch mà chuyển từ thứ qua thứ là có một ngụ ý riêng. Cho nên nó làm cho giai điệu nghe hết sức hài hòa, thanh thản, bình an...


Như vậy hợp âm có tuân theo một quy tắc như hợp âm bình thường không ? hay nó được tùy sử dụng ở người nhạc sĩ ?


Câu trả lời là:


“ Nó không tuân theo một quy luật hay một nhạc sĩ nào hết. Tất cả đều phụ thuộc vào kinh nghiệm và sự sáng tạo của mỗi người. 2 yếu tố quan trọng này sẽ quyết định bản nhạc được hòa âm hay hoặc dở. Kinh nghiệm càng nhiều sẽ giúp người hòa âm xử lý bản nhạc tốt hơn. Đến những đoạn quan trọng, nếu biết vận dụng đúng hợp âm có thể tạo ra hiệu quả biểu cảm rất cao. Nhưng nếu cứ làm y như công thức thì sẽ làm cho bản nhạc trở thành một mớ hỗn độn, người nghe không còn thấy đâu là điểm nhấn. Nói chung, chỉ có kinh nghiệm và thời gian mới dạy cho bạn cách đặt chúng sao cho phù hợp.”

Giải Mã Huyền Sử

(Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.5)

Chử Đồng Tử

Người lảnh đạo Lac việt sẽ phải làm gì trươc cái xã hội lúc bấy giờ, khi mà tự do ngôn luân, tư tưởng bi giai cấp khống chế ngăn cấm, tham vọng đồng hóa từ phong tục tập quan của giai cấp thống trị áp đạt lên người dân Lạc việt. Gần một ngàn năm dưới ách thống trị của người Trung quốc chắc chắn sẽ không bỏ qua một hình thức nội dung chất chứa hình ảnh con dân Lạc việt,
Thử nghĩ, với 30 năm ,với chủ nghĩa Mác Lê-nin (1945-1975),sử sách, văn chương phải phục tùng chế độ.. thì 1000 năm Bắc thuộc, khi mà khác giông khác nói thì cái ách gông xiềng như thế nào.?? nếu không là:

Trăm năm bia đá thì mỏn
ngàn năm bia miêng hảy còn trơ trơ.

và Huyền sử được hình thành chất chúa sữ liệu ẩn dấu bên trong. Linh mục Dominique Luong Kim Đinh trong Kinh Hùng có đoạn:

"Huyền thoại chính là tự truyện của một dân tộc bao hàm những kinh nghiệm tích luỹ từ không biết bao đời tiên tổ kết tinh lại. Xuyên qua đó thường được kể lại bằng những nét lung linh cái sứ mệnh của dân tộc, nên đó quả là những di bảo thiêng liêng chứa chấp những giá trị thâm sâu nằm giáp miền tiềm thức.

Có thể nói tác giả đã dựng nên những huyền thoại cũng chính là tiềm thức cộng thông của tất cả tiên tổ đã góp phần vào việc kiến tạo dân nước. Nói đến tiềm thức là nói đến sự vượt biên cương lý trí phân minh, nên trở thành âm u.

Vì thế những niên đại, những địa danh, cũng như các nhân vật phải được hiểu một cách co dãn chập chờn, vì đó chỉ là những mảnh vụn của lịch sử được huyền sử dùng như tiêu biểu để nói lên những tư tưởng hướng dẫn cuộc sống của dân tộc, nên mang tên này hay tên khác, xảy ra nơi nọ hay nơi kia đều không quan trọng.

Huyền sử thuộc vòng trong tiềm ẩn không nhằm ghi chép sự kiện hay biến cố ngoại diện như sử kýmà cốt nhằm phác họa những hình ảnh văn hóa, những mẫu mực chung của lối sống, nghĩ, cảm, là những dạng thức có liên hệ mật thiết với hoàn cảnh nơi ấy, nên khi nào con cháu muốn tìm ra những làn sóng ngầm của lịch sử dân tộc cùng những cái nhìn soi dọi vào đời sống hiện đại để tìm ra những mẫu mực căn bản thì cần phải mở một cuộc hội thoại thâm thiết với những di bảo nọ. Việc đó có thể gọi theo tiếng nói ngày nay là làm triết lý. Như thế triết lý ở đây là một cuộc đào sâu kinh nghiệm sống của tiên tổ để lấy chất liệu tạo dựng những dạng thức canh tân hợp cảm quan thời đại. "

Sử Thần Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã xếp phần này vào Ngoại Kỉ, dù là phân ngoại kỳ nhưng vân mang ngụ ý, ông vẫn thiết tha ngày kia từ huyền sử, một trang sử sẽ được viết lại, những ẩn dụ sẽ được phơi bày, trã lại cho lịch sử Việt những trang sữ bị xáo nhòa trong qúa khứ.


Lỉnh nam Trích quái: Chừ Đồng Tử

Hùng Vương truyền ngôi đến vua cháu ba đời, có sinh được một người con gái tên là Tiên Dung Mỵ Nương, tuổi vừa mười tám, dung mạo tú lệ, nguyện không lấy chồng, chỉ thích ngao du thiên hạ. Vương chiều mà nghe theo. Mỗi năm khỏang tháng hai, tháng ba, nàng sửa soạn thuyền ghe, lênh đênh ngòai biển, vui chơi quên cả ngày về. Lúc bấy giờ ở làng Chử Xá có người tên là Chử Vy Vân sinh được một người con trai tên là Chử Đồng Tử, hai cha con tính vốn hiền lành, nhà ngheo lại gặp nhà cháy, của cải khánh kiệt tận chỉ còn một cái khố vải, cha con ra vào thay đổi nhau mà mặc. Bị bệnh già, cha bảo con rằng:- Ta chết thì chôn lộ thể cũng được, để cái khố lại cho con mặc kẻo xấu hổ.

Cha chết, người con không nỡ làm thế, cứ để cả khố mà chôn. Chử Đồng Tử bấy giờ thân hình trần truồng, đói rét khôn xiết, mới cầm cần câu đi đến bờ sông câu cá, trông thấy thuyền buồm đi qua, đứng dưới nước mà xin ăn. Nào ngờ thuyền của Tiên Dung bỗng đến đó; nghe thấy tiếng chuông trống đàn sáo, thấy những nghi trượng cờ xí, Đồng Tử sợ hãi, không biết trốn vào đâu, trông thấy trong bãi phù sa có chòm lau sậy, lơ thơ năm ba gốc, bèn ẩn thân vào đó, đào cát thanh huyệt để giấu mình, lại lấy cát vùi lên trên. Giây lát, thuyền của Tiên Dung ghé vào đó; nàng dạo chơi trên bãi cát, truyền lấy mùng màn vây kín cả chỗ lau sậy để tắm.

Tiên Dung vào trong màn, cởi áo múc nước dội tắm; cát chảy, thân hình Đồng Tử lộ ra, hồi lâu Tiên Dung biết là con trai. Tiên Dung nói:- Ta đã không thích lấy chồng, nay lại gặp người này cùng lộ thân với nhau trong một huyệt cát, có lẽ trời khiến thế chăng? Thôi ngươi hãy dậy mà tắm rửa đi. Rồi ban cho áo quần, cùng nhau xuống thuyền ăn uống hoan lạc; người trong thuyền đều cho là mộtsự gặp gỡ tốt lành xưa nay chưa từng có. Đồng Tử nói rõ sự tích cho Tiên Dung nghe; Tiên Dung thương xót, bảo làm vợ chồng.

Đồng Tử cố từ. Tiên Dung nói:- Việc này tự trời tác hợp, việc gì mà từ chối?

Những người tháp tùng vội đem việc ấy tâu lên với Hùng Vương; Hùng Vương giận bảo rằng:- Tiên Dung không biết trọng danh tiết, không biết tiếc tiền của ta, đi chơi giữa đường lại hạ giá, lấy người nghèo, còn mặt mũi nào mà thấy ta nữa, từ nay mặc kệ nó, không cho trở về nước nữa.
Tiên Dung nghe tin, sợ không dám trở về mới cùng với Đồng Tử mở chợ búa, lập phố xá, cùng nhân gian mậu dịch, dần dần nơi ấy thành một ngôi chợ lớn (nay là chợ Hà Lõa); thương nhân ngọai quốc qua lại buôn bán, kính sự Tiên Dung Đồng Tử làm chủ.

Có một nhà đại thương đến nói với Tiên Dung rằng:- Quý nhân xuất ra một thoi vàng, năm nay cùng với người nhà buôn ra ngòai biển mà mua vật quý, sang năm sẽ lời được một thoi.Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng:- Vợ chồng ta do trời định khiến, ăn mặc là của trời cho, bây giờ nên lấy một thoi vàng cùng với người nhà buôn đi ra biển mà mua hàng đem về làm kế sinh nhai.

Đồng Tử bèn cùng đi với người nhà buôn; ngòai biển có một hòn núi tên là Quỳnh Viên Sơn; trên núi có một chiếc am nhỏ, người đi buôn ghé thuyền ở đấy mà múc nước; Đồng Tử lên chơi trên am, có một tiểu tăng tên là Phật Quang truyền phép cho Đồng Tử.



(Ánh sáng phát ra từ Đức Phật : Phật Quang)


Đồng Tử mới lưu lại am nghe thuyết pháp, giao vàng cho người đi buôn mua hàng, dặn lúc nào trở về thì ghé lại am để cho Đồng Tử về.

Nhà sư mới tặng cho Đồng Tử một cái gậy và một cái nón, bảo rằng:- Linh thông tại đây đó.
Đồng Tử trở về, đem chuyện đạo Phật nói hết với Tiên Dung, từ đó giác ngộ, bỏ chợ búa, nghề buôn, đem nhau đi tìm thầy học đạo. Một hôm trời đã tối mà chưa đến nhà trọ, họ mới ở lại giữa đường, cắm gậy úp nón lên trên để che. Đêm đến canh ba, thấy hiện ra thành quách, lầu son đền báu, đài các lăng miếu, kho tàng miếu xà, vàng bạc châu ngọc, chiếu giường, mùng màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt đầy ở trước mặt.

Sáng ngày ai trông thấy cũng lấy làm kinh dị, tranh nhau đem những vật hoa hương, ngọc thực đến dâng hiến và xưng thần. Văn võ bá quan phân quân túc vệ, biệt lập thành một nước.
Hùng Vương hay tin cho là con gái mình làm loạn mới phát binh đi đánh; quan quân đến rồi, quần thần xin phân quân án ngữ.

Tiên Dung rằng:- Chuyện này không phải tự ta làm ra, cũng là trời giun gửi; sinh tử tại thiên, ta đâu dám chống cha, phải thuận chịu điều chính, chờ lệnh chém giết.

Lúc bấy giờ những người mới tập họp, sợ hãi mà chạy tán loạn, chỉ còn bọn người cũ ở lại với Tiên Dung.

Quan quân kéo đến đóng doanh ở bãi Tự Nhiên, chỉ còn cách một con sông lớn; ngày sắp tối nên chưa kịp tiến binh. Chừng đến nửa đêm, hốt nhiên gió lớn thổi làm nổi sóng đổ cây; quan quân đại loạn; bộ đảng, thành quách của nàng Tiên Dung nhất thời nhổ đi bay lên trời; đất ở chỗ ấy sập xuống thành một cái đầm lớn.

Sáng ngày, dân gian không trông thấy thành nữa, cho là linh dị bèn lập miếu đường, thời thường đến tế, gọi đầm ấy là Nhất Dạ Trạch, châu ấy là Man Trù Châu (hoặc gọi là Tự Nhiên Châu), chợ ấy là Hà Lõa Thị.

[ ---- Sau đến thời Nam Đế, binh nhà Lương sang xâm chiếm nước ta, vua sai Triệu Quang Phục làm tướng đem binh ngăn giữ. Quang Phục điều động dân chúng tàng ẩn ở trong đầm, cái đầm ấy sâu rộng bùn lầy, khó bề tiến lui; Quang Phục cỡi chiếc thuyền độc mộc qua lại cho tiện, thường nhân đêm tối, dùng thuyền mà đột xuất đánh phá cướp lấy lương thực, làm kế trĩ cửu cho giặc kiệt quệ. Ba bốn năm trường giặc không đánh được. Bá Tiên than rằng:- Đời xưa gọi là đầm nhất dạ thăng thiên, ngày nay lại là cái đầm nhất dạ đạo kiếp. Gặp lúc Hầu Cảnh tác loạn bên Trung Hoa, vua Lương triệu Bá Tiên về, ủy quyền cho tỳ tướng Dương Sằn thống lĩnh quần chúng. Quang Phục trai giới thiết đàn ở trong đầm, đốt hương cầu đảo. Thóat thấy thần nhân cỡi rồng giáng xuống giữa đầm, bảo Quang Phục rằng:- Ta lên trời nhưng linh dị còn ở đây, người có lòng thành cầu đảo, ta đến để giúp bình loạn tặc.Rồi cởi vuốt rồng đưa cho Quang Phục bảo giắt vào đầu đâu mâu, hễ đánh đâu là được đó. Nói đoạn lại bay lên trời. Quang Phục y như lời dặn đem binh đột kích, binh Lương đại bại, chém được tướng Dương Sằn ở trận tiền, binh Lương lui chạy. Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập lên làm Triệu Vương, đóng đô ở quận Vũ Ninh núi Trâu Sơn. ]

Chử Hiếu
"Chừng đến nửa đêm, hốt nhiên gió lớn thổi làm nổi sóng đổ cây; quan quân đại loạn; bộ đảng, thành quách của nàng Tiên Dung nhất thời nhổ đi bay lên trời; đất ở chỗ ấy sập xuống thành một cái đầm lớn. Sáng ngày, dân gian không trông thấy thành nữa, cho là linh dị bèn lập miếu đường, thời thường đến tế, gọi đầm ấy là Nhất Dạ Trạch, châu ấy là Man Trù Châu (hoặc gọi là Tự Nhiên Châu), chợ ấy là Hà Lõa Thị. "

và:

"Tiên Dung rằng: Chuyện này không phải tự ta làm ra, cũng là trời giun gửi; sinh tử tại thiên, ta đâu dám chống cha, phải thuận chịu điều chính, chờ lệnh chém giết."

Kết hơp hai đoạn trên :
1- "bay lên trời" Trời = Thiên = quẻ Càn = Cha2- "chờ lệnh chém giết."3- "chỉ còn bọn người cũ ở lại với Tiên Dung. "
Nhu vây Tiên Dung trở về với phụ vương cùng với Đông tử và gia nhân củ, không có gia nhân mới. "người mới" chỉ là hư cấu, không thật, làm nội bật sự trở về với Phụ vương, lúc đi và lúc vể. Chử hiêu của Tiên Dung củng được nhấn mạnh qua câu nói.
Chúng ta sẽ thấy cái nghi kỵ của câp lảnh đạo và hành xử của cấp thuộc hạ là một ám ảnh của dân tộc.(xin đoc lại chủ đề Chu Nguyen Chương / Mai Thôn / TuviLySo.net)

Ý nghĩa của Gậy và Nón

"Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái cái nón, vừa bảo:
"Các việc linh thông đều ở đó rồi!."

Đồng Tử trở về, đem chuyện đạo Phật nói hết với Tiên Dung, từ đó giác ngộ, bỏ chợ búa, nghề buôn, đem nhau đi tìm thầy học đạo.

Một hôm trời đã tối mà chưa đến nhà trọ, họ mới ở lại giữa đường, cắm gậy úp nón lên trên để che.
"gậy" và "NÓN" có nghĩa :

1 - Gây = rắn / Ác nhân --------- "NÓN" = che chở /Thiên nhân ---> Thiện /Ác
2 - Gậy = có hình dáng số 1 ----- "NÓN= có hình dáng Zero ----> nhi phân .

Cách tính toán dựa vào nhị phân. Có lẻ bàn tính là một trong ứng dụng nhị phân. Và dĩ nhiên không thể bỏ qua chử viết vì một khi đả có con số, bài tình, con toán, thì nền văn minh phải đả xuất hiện.

Sự phát triễn của văn minh này, nền văn minh dựa trên Tâm lý Phật giáo và Lộ trình Tâm (Đạo Tâm / Dịch), mà người Trung quốc thời du mục khởi lòng tham chiêm đoạt. và cũng chính vì thấy được hiễm họa người Trung Quốc, hiễm họa 1000 năm mất nước mà các bộ kinh đươc an bài rất tế nhị, kín đáo qua hệ tám thức, bí mật cũa huyền sử, với danh từ vượt thời gian "Bác sĩ" và chỉ có thể mỡ ra bởi người Lạc việt.

3 --------"cắm gậy úp nón lên trên " có nghỉa sự phối hợp của Gây và Nón hay 1 và Zero,3a ------ là nói đến sự xữ dụng Âm Dương qua Dich hay Lộ trình tâm3b ------ là nói đến sự xử dụng của 1 và Zero trong phép nhị phân mà người phương Tây nhìn thấy qua quẻ dich.
(Xin đọc Từ vi dưới mắt Nghiệp quả / nguồn gốc Âm Dương Ngũ Hành ; Tuvilyso.net, Nhớ Huế.Org)

4 - "Gậy và Nón", khi đi chung với nhau thì mang nghỉa luật pháp. Gậy là dùng sửa sai Ác nhân, "Nón" che chở người vô tội, nhân dân,... nghĩa là cơ cấu nhà nước, hành chính, luật pháp đã hình thành. Một cơ cấu được dụa trên căn bản "Tâm lý Phật giáo" xuyên qua hệ tám thức và Lộ trình tâm, Đạo của tâm.

Một sự hài hòa tất yếu, được minh chứng qua thới đại Hùng vương, người dân Lac việt đã có 2622 năm yên bình, một văn minh chảy dài 2622 năm, trong lich sử của cà thế giới không một quốc gia nào có thể so sánh và chỉ một triều đại, trước sau như một: Hùng Vương.
Tách riêng Dich (lộ trình tâm) chỉ dẫn tới Lảo tử, Không tử, Trang Tử , Mạnh Tử...nghĩa là vẫn "đi bên cạnh" dòng lich sử Trung quốc.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, 18 đời vua Hùng: 2879-258 TCN
Trải qua 18 đời
1, Kinh Dương Vương, Lộc Tục
2, Lạc Long Quân, Sùng Lâm
3, Hùng Quốc Vương, Lân Lang
4, Hùng Diệp Vương, Bảo Lang
5, Hùng Hy Vương, Viên Lang
6, Hùng Huy Vương,
7, Hùng Chiêu Vương
8, Hùng Vi Vương
9, Hùng Định Vương
10, Hùng Úy Vương
11, Hùng Chinh Vương
12, Hùng Vũ Vương
13, Hùng Việt Vương
14, Hùng Ánh Vương
15, Hùng Triều Vương
16, Hùng Tạo Vương
17, Hùng Nghị Vương
18, Hùng Duệ Vướng

18 đời Hùng Vương :

nếu đọc con số 18 như sau "Mười" viết 10 , đọc con số "Tám" viết 8 và "18 đời" bây giờ là 108 đời, do đó trung bình một đời Vua Hùng khoảng 24 năm.

Với người phật tử thì con số 108 có ý nghĩa là chuổi Tràng Hạt. Tràng hạt xuất hiên có nghỉa Phập Pháp xuất hiện, và đây cũng là đất nước của Phật, đất nước được lảnh đạo bởi chánh pháp, Tâm lý phật Giáo và Đạo của Tâm.. Nếu như Do Thái với Thiên Chúa là tổ phụ của họ.(??? người viết không rành về Thiên Chúa giáo, xin đính chánh nêu sai sót) .

Khi liệt kê 18 đời Hùng Vương thì lại có nghĩa 18 vị A la Hán của chúng ta, của người Lac việt. 18 vị A la hán cùng với Phật tử sẽ theo lich sử dưng nước mà lẩn lượt xuất hiện bảo vệ, thông lảnh, dẫn dắt người dân Lạc việt vượt gềnh vượt thác, vượt chông gai hiểm nguy..

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Thời đại Hùng vương có từ lúc nào ? Nói đền Dich, nói đến Tử vi, ... bói toán nói chung, ta không thề tách rời hệ thống lich pháp. Không có lich pháp làm căn bản cho Ngũ hành nạp âm thì không một môn, gọi là huyền bí- bói toán đươc hình thành.

Lịch Pháp Việt Nam

(Trich Luc Độ Tâp Kinh/ Ts Lê Manh Thát)
Lục độ tập kinh ngày nay có cả thảy 91 truyện. Trong số các truyện này có một số truyện ta có thể truy về thời các vua Hùng còn nắm giữ quyền hành, nghĩa là trước biến cố năm 43sdl, khi cuộc kháng chiến vệ quốc do Hai Bà Trưng lãnh đạo thất bại. Cơ sở cho một việc truy tìm như vậy dựa trên một hiện tượng khá đặc thù của những truyện này. Đó là hiện tượng sử dụng lịch pháp. Trong Lục độ tập kinh có 10 truyện đề cập đến đơn vị thời gian, tức các truyện:
Truyện 9, ĐTK152, tờ 4b19, cl và c9:"Một thời 90 ngày" (nhất thời cửu thập nhật), "hai thời 180 ngày" (nhị thời bánh bát thập nhật), "thỉnh ở lại ba thời" (thỉnh lưu tam thời).


Truyện 14, tờ 9a13 "Hai mươi mốt ngày thì đến núi Đàn Đặc" (Tam thất nhị thập nhật nãi chí Đàn Đặc sơn) Truyện 24, tờ 14c23: "Bố tát thấy Phật, vui vẻ qui y, thỉnh Phật và Tăng ở lại nhà mình bảy ngày cúng dường trọn lễ" (Bồ tát đồ Phật, hân nhiên tự quy, thỉnh Phật cập Tăng thất nhật lưu gia, dĩ lễ cúng dường); cùng truyện tờ 15a2: "Bảy ngày như thế, đều không lười mõi" (thất nhật nhược tư đô vô giải)
Truyện 25 tờ 15c27: "Ở thai mười tháng" (Xử thai thập nguyệt).
Truyện 61, 34a2: "Mười ngày sau" (thập nhật chi hậu)
Truyện 76 tờ 40b12: "Bé trong bụng mẹ... ba tam tuần ngày, thân thể thành hình" (Nhi tại mẫu phục.. tam thập bát thất nhật, thân thể giai thành)
Truyện 79, tờ 42b9-12: "... rồng vui vẻ làm mưa gió bảy ngày bảy đêm. Đức Phật ngồi ngay không động không lay, không thở, không hít. Bảy ngày không ăn thì được thành Phật. Lòng vui, không còn tưởng. Rồng rất vui mừng, cùng bảy ngày không ăn, mà không có niệm đói khát. Hết bảy ngày, mưa gió tạnh" (... Long hỉ, tác phong vũ thất nhật thất dạ. Phận đoạn tọa, bất dộng bất dao bất suyễn bất tức. Thất nhật bất thực, đắc Phật. Tâm hỉ, đô vô hữu tưởng. Long đại hoan hỉ, diệc thất nhật bất thực, vô cơ khát niệm. Thất nhật tốt, phong vũ chỉ)
Truyện 83, tờ 44c17: "Vua vui vẻ bày tiệc, rượu nhạc bảy ngày" (Vương hỉ, thiết tửu vi nhạc thất nhật); cùng truyện tờ 45a8: "Bẻ trúc để ghi thì đi đường bảy ngày mới về tới vương quốc" (dĩ trúc vi soán hành đạo thất nhật, nãi chí vương quốc); tờ 46a14-16: "Vua nói: Hãy ở lại bảy ngày nữa [...] sau bảy ngày có đại thần vương đến chỗ vua trời chúc mừng" (Vương viết "Thả lưu thất nhật [...], thất nhật chi hậu, hữu đại thần vương chỉ thiên vương sở hạ viết...); tờ 45c1 "Bố thí bảy ngày; không ai thiếu thốn mà không được đầy đủ" (bố thí thi thất nhật, vô phàm bất túc).
Truyện 88, tờ 50b13-23: "Trong một trăm năm, phàm có ba trăm mùa xuân, hạ đồng. Mỗi mùa có một trăm. Lại trong 1200 tháng, các tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, mỗi thứ bốn trăm thánh. Trong ba vạn áu ngàn ngày, xân một vạn hai ngàn ngày. Hạ nóng, đông lạnh, mô4i thứ một vạn hai ngàn ngay. Trong một trăm năm, một ngày hai bữa... Trong 100 năm, đêm ngủ trừ năm mươi năm... Con người thọ 100 tuổi chỉ vui có mười năm" (Bách tuế chi trung phàm cánh tam bách thời, xuân hạ đông nguyệt các cánh kỳ bách dã. Cánh thiên nhị bách nguyệt xuân hạ đông tiết các cánh tứ bách nguyệt. Cánh tam vạn lục thiên nhật, xuân cánh vạn nhị thiên nhật, hạ thử đông hàn, các vạn nhị thiên nhật. Bách tuế chi trung, nhất nhật tái phạn... Bách tuế chi trung, dạ ngọa trừ ngũ thập tuế... Nhân thọ bách tuế, tài đắc thập tuế nhĩ). Ta thấy truyện 98 này ghi nhận một năm có 360 ngày, chia thành ba mùa [thời], mỗi mùa có 120 ngày, ậy mỗi mùa có 3 tháng: "Trong một trăm năm phàm lại có 300 mùa, xuân hạ đông mỗi mùa có 100, tức 1200 tháng, xuân hạ đông tiết, mỗi tiết có 400 tháng, tức 36.000 ngày, mùa xuân lại có 12.000 ngày, mùa hạ nóng, mùa đông lạnh, mỗi mùa 12.000 ngày". Rõ ràng, một ghi nhận như thế bộc lộ quan điểm lịch pháp của Phật Giáo Ấn Độ, mà ta ngày nay còn tìm thấy trong Xá đầu luyện thái tử nhị thập bát tú kinh, ĐTK1501 tờ 419c1-2 & b4-6 và Phạn bản Sàradùlakarnàvadàna của nó hiện còn bảo lưu: "Ba mươi ngày là một tháng, kể 12 tháng là một năm", và một năm chỉ có ba mùa là dông, xuân và hạ. Điểm lôi cuốn là Xá đâu luyện thái tử nhị thập bát tú kinh do Trúc Pháp Hộ dịch vào khoảng những năm 265-313, thì trước đó hơn nửa thế kỷ", Trúc Luật Viêm và Chi Khiêm lại thực hiện một bản dịch sớm hơn dưới tên Ma đăng già kinh gồm hai quyển thượng hạ. Ngoài chuyện ghi nhận ở quyển hạ ĐTK1500 tờ 409a13-4 là "ba mươi ngày đêm gọi là một tháng, 12 tháng này gọi là một năm"; còn nói ở tờ sau [410a18-9]: "Hễ năm thì có 365 ngày... tháng có 30 ngày". Dầu sao đi nữa, việc chia một năm có 360 ngày thành 12 tháng và ba mùa của Lục độ tập kinh có vẻ là một phản ảnh khá trung thành quan điểm lịch pháp của Phật giáo vào những thế kỷ trước và sau dl. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu tiếp, ta thấy truyện 9 của Lục độ tập kinh 1 ĐTK152 tờ 4b19 và 4c1& c9 lại nói đế "một mùa 90 ngày" (nhất thời cửu thập nhật) và "hai mùa 180 ngày" (nhị thờ bách bát thập nhật). Thế cũng có nghĩa một năm có tới bốn mùa, chứ không phải ba mùa. Lịch pháp Ấn Độ thời tiền Phật giáo của giai đoạn Vệ đà tiền kỳ, tức khoảng những năm 1500-100tdl, thường chia 12 tháng cuả một năm thành 6 mùa là lạnh ['sarad] và rét [vasanta], hạ [grìsma], mưa [varsa], thu ['sarad] và rét [hemanta], như Rigveda x.90; 6; i.131, 4 v.v... đã ghi. Đến giai đoạn Vệ đà hậu kỳ [1000-300tdl], sáu mùa vừa kể trên rút gọn lại còn ba mùa là đông, hạ và mưa, và xếp đặt các tháng còn lại cho phù hợp, mà ta có thể thấy trong Taittiriya samhità. Việc rút gọn lại còn ba mùa này sau đó đã được nền lịch pháp Phật giáo chấp nhận, như đã nói trên. Vậy, rõ ràng sự kiện truyện 9 nói tới bốn mùa dứt khoát không liên hệ với lịch pháp Ấn Độ và Phật giáo. Thế phải chăng nó chịu ảnh hưởng của lịch pháp Trung Quốc?.


Đúng là lịch pháp Trung Quốc từ thời Ngũ đế [2550-2140tdl] đã đề cập tới bốn mùa xuân hạ thu đông, như Nghiêu điển trong Thượng thư chú sở 2 tờ 5b10-6b3 dã viết [vua Nghiêu] bèn sai hai họ Hy, Hòa xét chuyển vận của trời, trăng và sao, để thế mệnh trời, mà báo cho dân biết thời tiết [...] Khi ngày dài nhất, sao là Hỏa, thì là giữa hạ [...]. Khi đêm dài nhất, sao là Hư, thì là giữa thu [...] Khi ngày ngắn nhất, sao là Mão, thì là giữa đông [...]. Tuy vậy, nó cũng viết tiếp: "Vua nói: Này các ngươi Hy, Hòa năm quay lại sau ba trăm với 6 tuần và 6 ngày, lấy tháng nhuận đặt đúng bốn mùa, để nên năm".


Viết như thế, không những lịch pháp Trung Quốc từ xa xưa đã xác định mỗi năm có 365 ngày, mà còn dùng chế độ 10 ngày là một tuần. Chế độ 10 ngày một tuần này được sử dụng rất là phổ biến. Đọc Tả truyện chú sở 43 tờ 2b11 và 44 tờ 2b5 các năm Lỗ Chiêu Công thứ 5 và 7, ta thấy nói "số của ngày là mười" (nhật chi số thập), "trời có mười ngày" (thiên hữu thập nhật). Thiên Chu quan của Lễ Ký cũng ghi nhận : "Họ Phùng tướng giữ các việc 12 năm, 12 tháng, 12 giờ, 10 ngày (thập nhật), 28 ngôi sao". Đặc biệt, hệ thống 10 ngày đây không chỉ tồn tại trên sách vở hiện lưu truyền, mà còn thấy trên các văn tự giáp cốt mới khai quật, như Quách Mạt Nhược_1 đã chứng tỏ. Nói cách khác đi, lịch pháp Trung Quốc chỉ dùng hệ thống 10 ngày, để chia ngày của tháng, mà thời Nghiêu Thuấn đã gọi là tuần. Hệ thống này Lục độ tập kinh 6 ĐTK 152 tờ 34a2 trong truyện 61 chỉ sử dụng một lần, và chỉ dùng chữ 10 ngày trơn, tức "sau mười ngày", mà không dùng đến chữ tuần. Ngược lại, hệ thống tuần ngày được nói đến một cách rộng rãi. Cụ thể là các truyện 14 tờ 9a13, 24 tờ 14c23, 54 tờ 31b12, 79 tờ 42b9-12 và 83 tờ 44c17, tờ 45a8 & c1 và tờ 46a15. Đặc biệt, truyện 76 tờ 40b12 để tính thời gian thai nhi ở trong bụng mẹ, đã dùng số 38 bảy ngày [tam thập bát thất nhật]. Điều này có nghĩa dù truyện 9 có nói tới hệ thống bốn mùa, hệ thống ấy không nhất thiết phải xuất phát từ lịch pháp Trung Quốc.


Kết luận đây hoàn toàn phù hợp với một báo cáo của Lưu An [? - 122tdl] về quan hệ lịch pháp giữa Trung Quốc và Việt Nam thời cổ đại còn ghi lại trong Tiền Hán thư 64 thượng tờ 2a10-b1 nói rằng: "Việt là đất phương ngoài, là dân cắt tóc xăm mình, không thể lấy phép tắc của nước mủ đai mà xử lý nó. Từ thời Tam đại hưng thịnh, Hồ và Việt không chịu nhận chính sóc, chẳng mạnh không thể phục chúng, chẳng uy không thể ngăn chúng, cho là đất không thể ở, là dân không thể chăn, không đáng làm phiền Trung Quốc".


Bảo là "từ thời Tam đại, Hồ và Việt không chịu nhận chính sóc", Lưu An muốn xác nhận rằng từ những triều đại nhà Hạ (2140-1711tdl), nhà Thương (Ân 1711-1066tdl) và nhà Chu (1066-256tdl), người Việt ta đã không "chịu chính sóc", tức đã không dùng lịch pháp Trung Quốc. Do thế, việc truyện 9 chia 360 ngày của một năm thành 4 mùa, mỗi mùa 90 ngày, phải nói là xuất phát từ lịch pháp Việt Nam thời Hùng Vương hậu kỳ, nếu không phải là tiền kỳ cùng lúc với thời Ngũ đế (2550-2140tdl) bên Trung Quốc.


Xác định này càng được củng cố thêm, khi ta phân tích lịch pháp Ấn Độ, để xem thử tình trạng sử rộng rãi hệ thống 7 ngày có xảy ra, như đã xảy ra trong Lục độ tập kinh hay không. Đúng là người Ấn Độ từ xa xưa rất thích con số 7, mà chứng cớ có thể tìm thấy dễ dàng trong Rigveda i.62,7 [nói đến phần của thế giới, 7 rặng núi, 7 tiên nhân], i.63,7 [7 suối, 7 đại cương, 7 thành phố], i.72,6 [7 ngọn lửa, 7 âm, 7 lễ, 7 bước lên trời..] v.v... Tuy nhiên trong lịch pháp của họ không dùng tới hệ thống tuần 7 ngày. Mahàbhàrata 1.1.35 sau khi kể về sự hình thành thế giới và mọi vật sinh xuất, đã viết:
samvatsarartavo màsàh paksàhoràtrayah kramàt / yac cànyad api tat sarvam sambhùtam lokasàk sikam / 35 năm, mùa, tháng, tuần, ngày, đêm cũng lần lượt xuất sinh và đó là sự sinh của tất cả mọi vật được biết trên thế gian này.
Chữ mà chúng tôi dịch là tuần, trong tiếng Phạn là paksa. Và chữ paksa thực tế không có nghĩa là tuần, như ta thường hiểu theo dạng 10 ngày cuả tuần Trung Quốc hay dạng 7 ngày của tuần hiện nay. Ngược lại, trong lịch pháp Ấn Độ nó dùng để chỉ đơn vị 15 ngày, mà trong lịch pháp tiền kỳ gọi là nguyệt tiền [pùrva/apùryamàna-paksa] và nguyệt hậu [apara/apa-ksìyamàna], rồi sau đó gọi là bạch nguyệt ['sukla/'suddha] và hắc nguyệt [krisna/tàmisra], như có thể thấy trong Áo nghĩa thư Kausìtaki upanisad, các kinh Kausika, Kàtyàyanasrauta, 'Sankhàya nasrauta, bộ luật Manu v.v... Đặc biệt lối chia hắc nguyệt bạch nguyệt này được sử dụng rất phổ biến trong lịch pháp Phật giáo, để qui định các lễ tiết của mình, cụ thể là lễ bố tát [posadha] trong Luật tạng và các lễ khác trong mật giáo. Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát cập chư tiên sở thuyết cát hung thời nhật thiên ác tú diệu kinh, quyển thượng ĐTK 1299 tờ 393a 1-2, viết rất rõ: "Hễ tháng thì có hai phần hắc và bạch. Từ ngày mồng một đến ngày 15 là bạch nguyệt. Từ ngày 16 đến ngày 30 là hắc nguyệt".
Thế rõ ràng trong lịch pháp Ấn Độ và Phật Giáo rất ít sử dụng hệ 7 ngày. Cần chú ý ngay trong tạng kinh Nam truyền bằng tiếng Ba lỵ, thời gian thai nhi nằm trong bụng mẹ cũng chỉ dùng hệ 9 hay 10 tháng [M.i.4.u. Mahàtanhà sankhayasuttam: màtà nava và dasa và màse gab- bham kucchinà pariharati...], chứ không dùng hệ 7 ngày. Còn tuần của lịch pháp Trung Quốc thì dứt khoát có 10 ngày, như câu trong Nghiêu điển dẫn trên cho thấy.

Nói tóm lại, theo chúng tôi, hệ thống lịch chia năm ra làm 360 ngày, rồi phân bổ thành bốn mùa, mỗi mùa gồm có 3 tháng, mỗi tháng có 30 ngay cùng với việc dùng hệ 7 ngày làm tuần là một di sản của lịch pháp thời Hùng Vương còn được bảo lưu trong Lục độ tập kinh qua 10 truyện đã dẫn trên, trừ truyện 88 phản ảnh hệ thống lịch pháp của Phật giáo Ấn Độ. Và để bảo lưu được một hệ thống lịch sử như thế, các truyện ấy phải lưu hành vào thời hệ thống lịch đó đang còn hiệu lực, tức đang còn sử dụng chính thức và công khai. Đối cách nói, chúng phải xuất hiện tại Việt Nam trước biến cố năm 43 sdl, khi nhà nước Hùng Vương bị quân đội nhà Hán dưới sự chỉ huy của Mã Viện đánh bại. Nếu xuất hiện sau, khi bộ máy cai trị đàn áp của Mã Viện đã thiết lập, thì dứt khoát một bảo lưu như thế không thể nào xảy ra, vì Viện đã cố tình thực hiện một chính sách huỷ diệt tàn bạo chưa từng thấy trong lịch sử, như bắt đày những người lãnh đạo chính trị và tinh thần [cừ soái>, điều tấu lại Việt Luật "hơn mười việc" và thu gom trống đồng, ngoài việc giết sạch những người chống đối vũ trang và xây dựng thêm đồn canh để bảo vệ cho bạo quyền do Viện mới thiết lập.
Xác định được một phần nào hệ thống lịch pháp thời Hùng Vương như vậy không những giúp ta sửa sai một quan niệm lưu hành khá phổ biến trước đây là "Nay không thấy dấu tích gì giúp ta biết cách xếp đặt ngày tháng của dân Lạc Việt xưa", mà còn giúp khẳng định lời đoán của Hoàng Xuân Hãn rằng "văn hóa Trống đồng của nước Văn Lang chắc đã dùng năm 12 tháng, tháng lần lượt 29-300 ngày cũng không hẳn là vô lý"_1. Nhưng quan trọng hơn đối với chúng ta là việc xác định được hệ thống lịch vừa nói đưa ta đến một nhận thức mới không những về Phật giáo nước ta, mà còn về thời đại Hùng Vương cùng những thành tựu nhiều mặt của nó, trong đó có cả tư tưởng, văn học và khoa học kỹ thuật. Riêng đối với Phật giáo nhờ xác định hệ thống lịch, ta cũng xác địhnh được những kinh truyện nào đã truyền vào và lưu hành ở nước ta, khi triều đại Hùng Vương đang còn tồn tại. Và do việc nghiên cứu các kinh truyện ấy, ta sẽ biết học thuyết nào của Phật giáo được nhân dân ta chấp nhận và sinh hoạt Phật giáo vào giai đoạn ấy ra sao. Hiện có 7 truyện như thế đang có mặt trong Lục độ tập kinh và chúng tất phải lưu hành, khi hệ thống lịch Việt Nam đang có hiệu lực, nghĩa là trước năm 43 sdl, lúc triều đại Hùng Vương còn thực hiện chức năng quản lý đất nước của mình."

(Hết đoạn trich)


Theo TS Lê mạnh Thát, ta có thể suy rằng hệ thống lịch pháp TQ với 365 ngày một năn không thỏa mãn diều kiện “Lục thập hoa giáp” ma chỉ con số 360 của lich pháp Lạc việt mới thỏa điều kiện “Lục thập hoa giap” qua ngũ hành nạp âm. Thiếu cơ sỡ này không một môn khoa hoc “Huyền bí” nào có thề hình thành và ứng dụng.


Bảo là "từ thời Tam đại, Hồ và Việt không chịu nhận chính sóc", Lưu An muốn xác nhận rằng từ những triều đại nhà Hạ (2140-1711tdl), nhà Thương (Ân 1711-1066tdl) và nhà Chu (1066-256tdl), người Việt ta đã không "chịu chính sóc", tức đã không dùng lịch pháp Trung Quốc. Nói khác Lich Pháp Lạc việt chắc hẳn đã xuất hiên rât lâu trước nhà Hạ, nói xa Ngũ đế [2550-2140tdl]. Và như thế xác định đươc một phần nào thới đại Hùng vương như sử sách đã ghi 2879-258 không gi sai trái.

Friday, January 7, 2011

Nguồn Gốc Ngũ Hành 4

(Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.4)

Theo Duy Thức:

1. Nhãn thức: sự nhận thức của thị giác - mắt.
2. Nhĩ thức: sự nhận thức của thính giác - tai.
3. Tỷ thức: sự nhận thức của khứu giác - mũi.
4. Thiệt thức: sự nhận thức của vị giác - lưỡi.
5. Thân thức: sự nhận thức của thân giác - cơ thể.

Thức thuộc phi vật thể (năng lượng, KHÔNG) khi qua "sự vân dụng của Y Lý" thì Thức trở thành Khí (vật chất, SẮC), tiến trình này gọi là Khí Hoá, và thông qua các khiếu mà ta nhận được khi kết hợp Thận, Tỳ, Can, Tâm Phế (Đông Y)và Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân. (Duy Thức)

-"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
-"Tỳ khai khiếu ở miệng" hay "Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ thuộc thuộc Thổ
-"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
-"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
-"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim

1. Nhãn thức ---> hóa khí--->"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
2. Nhĩ thức---> hóa khí--->"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
3. Tỷ thức---> hóa khí--->"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim
4. Thiệt thức---> hóa khí--->"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
5. Thân thức---> hóa khí--->"Tỳ khai khiếu ở miệng"/" Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ (Thân nhục) thuộc Thổ

Chú ý
---- Tâm vương và Tâm sỡ
---- Các đặc tính của năm thức.
---- Tám thức cùng xuất hiện mất 1 thức mất tất cả Tám thức.

Do Tâm mà Thiên Ác được giả lập, Vì Thiện Ác mà con người tái sinh, cùng một lúc sự vân hành của tám thức cũng bắt đầu,không trước không sau Âm Dương, Ngũ hành được hình thành và con người tiếp tục trôi nỗi trong vòng sanh tử.

Tâm ---> Thiện Ác --->[Vận hành của Tám Thức --->Lộ Trinh Tâm] ---> Bát Quái(Âm Dương) Ngũ Hành

Tâm ---> Thiện Ác ---> Mat Na Thức(Thiện/Ác) / Ý Thức(Thiện/Ác) ---> Bát Quái (Âm Dương) Ngũ Hành

Tâm --->Lương Nghi ---> Tứ Tượng ---> Bát Quái(Âm Dương) Ngũ Hành


Điều đáng chú ý là không một danh từ nào có thể thoát ra khỏi sự bao hàm của Âm và Dương. Để phân tách hai hóa chất tương tự hóa tính hay lý tính người ta dủng phương pháp Sắc ký, sự trôi chảy qua cột sắc ký hay sắc ký trên giấy mà lần lượt thâu lươm lai từng hóa chất, và đó cũng là phương tiên duy nhất để tách rời "Âm-Dương" và "Thiện-Ác" là qua sự vận hành của hệ tám thức trên dòng trôi nỗi nghiêp lực..

Đến đây ta có ba bản đồ 1-- Tử vi 2-- Bát quái Thái cực đồ 3-- Y hoc Đông phương.
Được nối liền nhau qua hệ tám thức. Mặc dù thới điễm xuất hiện các bộ trên không đồng niên đại, không cùng một soạn gia.
Nhưng, nếu liên tưởng tới phương pháp truy tầm kho tàng của Tây phương.

Bản đồ 1 Tử vi có Tàng Thức, Mạc Na Thức, Ý thức (ngũ hành chỉ kết hợp sau khi tìm được bản đồ 3, và danh từ vượt thới gian "Bác Sĩ"

Bản đồ 2 cũng tìm ra ba chử Tàng Thức, Mạc Na Thức, Ý thức

Bản đồ 3, qua danh từ vượt thới gian "Bác sĩ" mà tìm lại đươc Ngũ hành, do 5 Thức được Khí hóa.
"Bác sỉ "chỉ tới Bản đồ thứ ba mà Hệ tám thức mới có khả năng nối liền các mảnh (bản đồ) thành một, nói khác Thời điểm xuất hiện của bản đồ xưa cũ nhất là Thời diễm chung cho cả ba (bản đồ), người sáng tạo cũng chỉ là MỘT NGƯỜI duy nhất.

Trần Đoàn Tiên Sinh Là Ai? Nếu Đại Lạt Ma có thể là một hoá thân của 5000 ngàn năm trước thì Trần Tiên Sinh cũng là một hoá thân,(Qua quá trinh dựng nước, nhiếu hóa thân của Lac việt lần lượt xuất hiện để bảo vệ, dẫn dắt dân tộc chúng ta qua những thời kỳ hung hiễm, gần như bị đồng hóa, từ Tàu Mông cổ, Thanh, Tây.. Lý do tại sao sẽ nói ở chương sau.) với nhiệm vụ bảo vệ phát huy, gìn giữ Tư vi, một trong ba bộ kinh điễn: Y-học (Hoàng đế nội Kinh), Dich Lý, Tử Vi. Theo người viết thì còn một cuốn nũa, mà người viết đang tìm hiểu, theo thiễm nghỉ , có lẽ về Luyện khí (nội công)?

Wednesday, January 5, 2011

Nguồn Gốc Ngũ Hành 3

(Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.3)

KIM KHÍ
(trích từ http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/)

A.- ĐẠI CƯƠNG - Phương Tây, mùa Thu, buổi chiều tối là biểu hiện của Thiếu âm (theo đồ Thái cực).
- Kim khí là nguồn năng lực phát xuất từ Thiếu âm.

B.- NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA KIM KHÍ

a) Về cơ thể
1. Mũi và Khứu giác
-Thiên "Ngũ Duyệt Ngũ Sứ" (LKhu 32) ghi : "Phế khai khiếu ở mũi, Phế khí thông lên mũi".
- Mũi là cửa của bộ hô hấp, nên có liên hệ đến Kim khí.
- Lông mũi là Thủy của Phế. Lông mũi dầy, dậm là dấu hiệu Thủy của phế vượng. Lông mũi ít, thưa là dấu hiệu Thủy của Phế suy.
- Mạch máu ở mũi là biểu hiện Hỏa của Phế, do đó, mũi nóng đỏ, sưng, chảy máu mũi là Hỏa của Phế vượng.
- Gân cơ ở mũi là biểu hiện Mộc của Phế, nơi người viêm, lao phổi... Kim suy khắc được Mộc khiến Phế Mộc vượng lên, làm cánh mũi phập phồng (có thể dựa vào dấu hiệu này để chẩn đoán bệnh về Phế 1 cách chính xác).
- Cơ nhục là dấu hiệu của Thổ, trong mũi mọc thịt dư sau khi viêm là dấu hiệu Thổ của Phế vượng. (Hỏa sinh Thổ).
- Khứu giác có liên hệ đến mũi :
Mũi hoàn hảo, có khả năng phân biệt được mùi vị 1 cách chính xác và hoàn hảo. Một số dân tộc thiểu số có khả năng phân biệt được mùi vị của từng loại vật vừa đi qua.
- Mũi bị rối loạn, (viêm nhiễm, có tật...) ảnh hưởng đến khứu giác, làm khứu giác giảm, có khi không còn cảm giác, mùi vị gì.
- Các chuyên gia Đại Học Tổng Hợp Pensylvania (Mỹ) điều tra 1955 người từ 5-99 tuổi cho thấy : lứa tuổi từ 20-40 (thời gian vượng của Thiếu âm Kim khí)
có khứu giác nhạy hơn cả. Tuổi 65-80 (thời gian Thiếu âm và Thái âm suy) hầu như mất khả năng phân biệt mùi đến 1/4.
2. Nước mũi
- Thiên Tuyên Minh Ngũ Khí (TVấn 23) ghi : "Nước mũi là dịch của Phế".
- Mũi có liên hệ đến hô hấp, nước là biểu hiện của Thủy dịch, do đó, nước mũi là dấu hiệu Thủy của Phế.
- Sổ mũi, nước mũi nhiều và trong là dấu hiệu Thủy của Phế suy.
- Vào mùa đông, buổi sáng khí lạnh, đi mưa về lạnh làm thủy khí suy người ta hay bị sổ mũi.
3. Họng, Thanh quản, Giọng nói (âm thanh)
- Thiên Ngũ Duyệt Ngũ Sứ (LKhu 32) ghi : "Phế chủ âm thanh".
- Họng là 1 phần của bộ hô hấp, nơi đây có thanh quản, tuyến Amidal, Vòm họng... đều chịu sự chi phối các khí của Phế.
- Họng, Amidal sưng, lở loét... là dấu hiệu Hỏa của Phế vượng.
- Thanh quản bị viêm, các dây rung phát âm sưng, gây ra khan tiếng là dấu hiệu Hỏa của Phế vượng (làm Mộc vượng gây co rút thanh quản làm khản tiếng).
- Khi phải la hét, nói nhiều, Mộc khí bị huy động quá, sau đó suy sụp làm khản tiếng, tắc tiếng là dấu hiệu Mộc của Phế suy.
- Người Mộc khí vượng thường nói lớn tiếng, âm thanh mạnh, do đó, qua giọng nói, không những biết được phần nào tình trạng của Phế khí mà còn biết được phần nào nội lực dựa trên đặc tính của âm thanh.
- Tiếng la hét thuộc Can, người có tiếng hét to, vang là người có Mộc khí của Can vượng.
- Tiếng la yếu, khàn là dấu hiệu Mộc của Can suy.
- Tiếng cười thuộc Tâm, cười vang , to... là dấu hiệu Mộc của Tâm vượng.
- Tiếng hát thuộc Tỳ, tiếng khóc thuộc Phế, tiếng rên thuộc Thận... có thể dựa vào cường độ to nhỏ, mạnh yếu để chẩn đoán được tình trạng vượng suy của các tạng phủ liên hệ.
4. Tuyến giáp
- Quanh vùng tuyến giáp có những cơ quan liên hệ mật thiết với chức năng hô hấp, gọi là xoang cảnh, rất nhạy cảm với các biến thiên của áp lực không khí và tuyến cảnh phản ứng rất mẫn cảm mỗi khi hóa tính không khí, do đó, giữa tuyến giáp và phế khí có liên hệ với nhau vì "Phế chủ hô hấp".
- S. Herbute và 2 cộng sự viên thuộc nhóm sinh học Montpeellier ngày 22-1-1972 đã công bố kết quả : Hoạt động tuyến giáp đến độ tối đa giữa 2-3g sáng là giờ của Phế khí vượng (giờ Dần từ 3-5g) do đó, tuyến giáp và Phế có liên hệ với nhau.
- Bướu cổ đơn thuần (tuyến giáp suy) là dấu hiệu Thổ của Phế suy. Bướu cổ lồi mắt (BASEDOW, tuyến giáp cường) là dấu hiệu Thổ của Phế vượng.
5. Da lông
- Thiên "Tuyên Minh Ngũ Khí" (TVấn 23) ghi : "Phế chủ da lông (Bì mao)".
- Da lông là phần trực tiếp tiếp xúc với không khí (Kim khí) do đó, giữa da lông và kim khí có sự liên hệ với nhau.
- Theo Eaton : Da lông và tóc ở người mọc rất nhanh vào các tháng 7, 8 và nhanh nhất vào tháng 9 (tức vào mùa thu, là mùa kim khí vượng), do đó, giữa lông tóc và Kim khí có sự liên hệ với nhau.
- Da khô, viêm, nóng, xuất huyết dưới da là dấu hiệu Hỏa của Phế vượng.
- Cơ nhục của da phì đại (bướu, mô mỡ...) là dấu hiệu Thổ của Phế vượng.
- Khi tức giận Mộc khí gia tăng làm cho lông tóc dựng lên là dấu hiệu Mộc của Phế vượng.
- Lông tóc là biểu hiện Thủy của Phế, vì thế lông măng xanh nhiều là dấu hiệu Thủy của Phế vượng, ngược lại, ít lông, lông khô, rụng là dấu hiệu Thủy của Phế suy.
+ Da trắng đục, trắng bạch là dấu hiệu kim khí suy. Người có nước da này hay buồn hay lo (thường gặp nơi người lao phổi). Những vần thơ, khúc bi kịch não nề nhất, những chuyện tình sử thảm thương nhất như : Roméo Juliette, chuyện tình Love Story... đều xuất phát từ dân tộc da trắng.
b) Về chức năng
6. Hơi khí
- Nội Kinh : "Bao nhiêu khí đều thuộc về Phế".
- Tính chất của thiếu âm là bốc hơi, liên hệ đến thể hơi, khí.
- Tùy theo biểu hiện suy vượng của hơi, khí ở vùng nào, có thể suy đoán bệnh ở vùng ấy.
+ Tức hơi trong phổi là dấu hiệu kim của Phế suy.
+ Tức hơi dội lên phía trên là dấu hiệu kim của Tâm suy.
+ Tức hơi vùng bụng là dấu hiệu kim của Tỳ suy.
+ Tức hơi vùng bụng dưới là dấu hiệu kim của Thận suy.
7. Hô hấp
- Thiên "Ngũ Tạng Sinh Thành" (TVấn 10) ghi : "Phế chủ hô hấp".
- Cơ năng hô hấp liên hệ đến không khí, do đó chịu sự chi phối đặc biệt của kim khí.
- Cơ năng hô hấp có nhiệm vụ trao đổi khí : hít thanh khí vào và thải trọc khí (khí dơ, xấu ra).
+ Thở vào : Đưa không khí từ ngoài vào (tức từ Biểu vào Lý) là dấu hiệu Mộc của Phế ở Biểu (tức là liên hệ đến Mộc của đại trường) chính nhờ Mộc của Phế ở Biểu làm cho bắp thịt, lồng ngực nâng lên, gia tăng thể tích lồng ngực, làm không khí vào phổi. Phổi thở vào khó khăn, hơi không đầy phổi là dấu hiệu Mộc của Đại trường suy.
+ Thở ra : Đẩy không khí từ trong ra ngoài tức là từ Lý ra Biểu là biểu hiện Mộc đó Phế ở Lý. Mộc khí này liên hệ với cơ năng của cơ hoành và các cơ bụng, làm thể tích lồng ngực thu hẹp, đẩy không khí ra, làm thở ra. Người bệnh thở ra dồn dập (như trong bệnh suyễn, Tâm phế mãn... là dấu hiệu Kim của Phế suy làm Mộc vượng lên, gây ra suyễn, khó thở.
+ Thở dốc : Người bị xuất huyết nhiều, khí huyết hao hụt, Phế kim suy kiệt làm Mộc của Phế vượng lên gây nên thở nhanh và gấp trong giai đoạn đầu (biểu hiện qua cánh mũi phập phồng) và khí Mộc của Phế bị huy động quá trở nên suy thì người bệnh lại thở yếu, thở dốc trong giai đoạn sau.
- Theo "FAMILY SAFETY" của Canada, tại Hiệp hội về môn học bệnh phổi ở Mỹ các nhà nghiên cứu thông báo : uống 1 ly rượu hoặc nước giải khát có pha
rượu trước khi đi ngủ có thể có những hậu quả đáng tiếc với việc hô hấp trong lúc ngủ. Số người uống rượu, 1 số bị 110 lần ngưng thở, ít nhất mỗi lần trong 10 giây, còn không uống rượu khi đi ngủ thì chỉ bị có 20 lần ngưng thở (uống rượu vào làm Hỏa vượng, ban đêm thuộc Thái âm, Thủy suy, Thủy suy làm Hỏa bùng lên mạnh hơn, Hỏa khắc kim, gây ra ngưng hô hấp).
- Nữ tiến sĩ tâm lý học S. Harx, Trường đại học Newyork cho rằng hô hấp và tính cách có liên hệ với nhau.
+ Người hô hấp sâu và chậm (kim khí sung mãn, đầy đủ) thì tính tình thường kiên định, kiên quyết, thích mạo hiểm, suy nghĩ và hành động nhanh nhẹn biết cách sắp xếp cuộc sống riêng mình (dấu hiệu Thủy khí sung mãn, do kim sinh Thủy).
+ Người hô hấp nhanh và nông (dấu hiệu kim suy) thì tính tình thường hay ngượng nghịu, hiền lành, nhút nhát, rụt rè, sống quen dựa vào người khác (dấu hiệu Thủy suy, kim suy làm Thủy suy).
9. Ho
-Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Ở sự biến động của Phế là ho".
- Ho là 1 tác động ly tâm(từ trong ra ngoài tức từ lý ra biểu) nhằm mục đích đưa hơi thở, đàm nhớt... từ trong ra ngoài, có liên hệ đến Mộc của Phế.
Trên lâm sàng thường gặp 2 loại Ho :
+ Ho khan (khái) : Ho không có mục đích loại đờm nhớt là dấu hiệu Mộc của phế vượng.
+ Ho đàm (khái thấu) : Tiếng ho có kèm theo sự thải trừ đàm nhớt ra ngoài cũng là dấu hiệu Mộc của phế.
- Theo Colome vào lúc sáng sớm (cuối giấc ngủ) lúc đó máu tụ lại trong phổi làm gây nên các cơn ho buổi sáng sớm nơi người bị viêm phổi (Hỏa vượng làm
Mộc vượng - buổi sáng là thời điểm Mộc khí vượng).
9. Hen suyễn
- Theo Reinberg, cơn hen suyễn thường gặp cao điểm nhất từ 24-4g tức là lúc phế khí thịnh (giờ Dần 3-5g) như vậy giữa suyễn và phế khí có liên hệ mật thiết.
- Thiên "Bản Thần" (LKhu 8) cũng ghi : Khí nghịch lên gây ra chứng suyễn, cũng theo Nội Kinh : ' Phế chủ khí, Thận nạp khí?, do đó suyễn cũng liên hệ với Thận.
- Theo Frank, thời gian cơn hen suyễn trùng hợp với thời gian bài tiết Cocticoit ra nước tiểu xuống tới mức thấp nhất, do đó giữa suyễn và Thận có mối liên hệ với nhau.
- Phân tích 1 cơn suyễn ta thấy : Suyễn một hợp chứng gồm 5 triệu chứng :
+ Tức trướng trong phổi, khó thở là dấu hiệu kim của Phế suy.
+ Đờm tiết ra nhiều là dấu hiệu Thổ của Phế suy.
+ Nhớt ra nhiều, nghe tiếng phổi thấy ran ẩm là dấu hiệu thủy của Phế suy.
+ Khí quản co thắt, thở dồn dập, nghe phổi thấy tiếng rít là dấu hiệu Mộc của Phế vượng.
+ Khí quản viêm là dấu hiệu Hỏa của Phế vượng. Hội chứng này là do Kim suy làm Thủy suy (Tương sinh), Thổ suy (Phản sinh), Mộc vượng (Tương vũ), Hỏa vượng (Tương thừa).
- Theo các nhà khoa học màng nhày của khí quản và cuống Phổi dễ nhạy cảm bởi không khí ô nhiễm vì đủ loại... Sự nhạy cảm đó gây ra co rút (Mộc vượng) làm ho hoặc suyễn. (Kim suy) : Tạp chí Nature ngày 23-3-1983 công bố 1 kết quả cho thấy chất Capsaicin chất cay của ớt (cay thuộc Kim) có tính làm cho màng nhày bớt nhạy cảm (Kim khắc Mộc), có thể dùng để trị chứng phù của màng nhày (Kim sinh Thủy) của những người có khí quản nhạy cảm (Mộc vượng) và người bị suyễn (Kim suy).
10. Đàm
- Đàm là chất bài tiết rà bộ hô hấp, do đó có liên hệ đến Phế.
- Tùy theo tính chất và màu sắc của đàm, có thể đoán biết sự rối loạn bệnh lý từ đâu.
+ Đàm có lẫn máu, đàm khô quánh là dấu hiệu Hỏa của Phế vượng.
+ Đàm có màu xanh (hay gặp nơi người ho nhiều do cảm nhiễm), dấu hiệu Mộc của Phế vượng.
+ Đàm màu vàng đặc, (hay gặp trong trường hợp hội nhiễm tụ cầu), dấu hiệu Thổ của Phế vượng (tăng cường Thổ khí chống lại môi trường ẩm thấp, là môi trường tạo nên các tụ cầu khuẩn).
+ Đàm trong, loãng và nhiều dấu hiệu thủy của Phế suy.
11. Buồn sầu - Lo âu
-Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Chí của Phế là ưu (lo âu)".
- Nơi Đồ Thái cực, Thiếu âm Kim khí là trung gian của sự vui mừng quá độ (Thái dương) đã chấm dứt và sự sợ hãi chết chóc (Thái âm) sắp bắt đầu. Giữa 2 trạng thái này, con người đâm ra lo âu, buồn sầu, buồn cho cái vui đã qua và lo cho cái tàn tạ sắp đến.
- Mùa thu, cây cối thay lá, lúa mùa chín tới chờ gặt... làm cho lòng người cũng vì thế mà buồn.
- "Ưu thương Phế" (sự lo âu hại Phế) : Những nguyên nhân bên ngoài gây sự lo buồn làm Kim khí suy và ngược lại người Kim khí suy thì hay buồn.
- Để biểu hiện sự buồn rầu về cái chết trong tang chế. Người Á Đông thường dùng tang phục, khăn tang, vải liệm... màu trắng (Sắc trắng là sắc của Kim).
c) Về ngoại giới
12. Kim khí và Táo khí
-Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Táo sinh Kim".
- Y Tông Kim Giám : "Trên trời là Táo, dưới đất là Kim, ở người là Phế, ở thể là Bì". Kim khí thông với Phế khí, do đó, các bệnh do Táo khí gây ra đều thuộc về Phế Kim.
- Triệu chứng của Táo là khô cổ, khát nước, bón, tiểu ít, da khô, tróc vẩy, Tân dịch hao hụt...
- Thiếu âm ứng với phương Tây, buổi chiều tối, mùa thu là thời điểm Táo khí vượng lên, Kim khí ở người cũng theo đó vượng lên.
- Người Kim khí suy, sẽ dễ chịu vào buổi chiều tối, mùa Thu (là thời điểm Kim khí vượng) và nặng hơn (khó chịu hơn) vào buổi trưa, mùa hè là thời điểm của Hỏa khí vượng (Hỏa khắc Kim).


THỔ KHÍ
(trích từ http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/)

A.- ĐẠI CƯƠNG - Nơi đồ Thái cực, Thổ nằm ở giữa (trung ương), là nơi kết tụ tinh hoa của thức ăn rồi phân phối cho toàn cơ thể.
- Trong thiên nhiên, đất đai được ví như Thổ khí, là nguồn nuôi sống tất cả sinh vật, là Mẹ của muôn vật.
B.- NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA THỒ KHÍ
a) Về cơ thể
1. Miệng môi
- Thiên "Ngũ Duyệt Ngũ Sứ" (LKhu 32) ghi : "Tỳ khai khiếu ở miệng".
Thiên Ngũ Tạng Sinh thành? (TVấn 10) ghi : "Tỳ Vinh nhuận ra ở môi".
- Trong hình Thái cực, miệng ở vùng giữa, thuộc Tỳ Thổ.
- Tùy theo dấu hiệu màu sắc, có thể biết được trạng thái bệnh của các cơ quan tạng phủ liên hệ.
+ Môi dầy, tốt, đầy đặn là dấu hiệu Thổ của Tỳ vượng.
+ Môi khô, nứt nẻ, lở, dộp là dấu hiệu Hỏa của Tỳ vượng.
+ Môi đen, thâm là dấu hiệu Thủy của Tỳ suy.
+ Trong miệng lở dộp, viêm nhiễm là dấu hiệu Hỏa của Tỳ vượng.
+ Nướu chân răng sưng là dấu hiệu Hỏa của Tỳ vượng.
+ Hàm cứng, co giật là dấu hiệu Mộc của Tỳ vượng.
+ Liệt mặt, miệng méo là dấu hiệu Mộc của Tỳ suy.
+ Râu ria rậm rạp, bóng láng là dấu hiệu Thủy của Tỳ sung mãn.
2. Nước miếng
Thiên Tuyên Minh Ngũ Khí (TVấn 23) ghi : "Nước miếng là dịch của Tỳ".
- Nước là biểu hiện của Thủy dịch, từ miệng chảy ra. Miệng ở giữa, thuộc Tỳ, do đó nước miếng có liên hệ với Tỳ.
- Nước miếng tự trào ra, ra nhiều là dấu hiệu Thủy của Tỳ suy (hay gặp nơi người có giun hoặc người mất trí nhớ do di chứng não).
- Nước miếng khô, ít nước miếng, nước miếng đục là dấu hiệu Hỏa của Tỳ vượng.
- Bác sĩ Nakamura và cộng tác viên tại đại học Nagasaki (Nhật), sau khi thí nghiệm trên súc vật cho thấy, nước miếng có khả năng làm lành vết thương
nhanh chóng. (Các vết thương ở da, liên hệ với Phế Kim, vì theo Nội Kinh, da lông thuộc Phế dùng nước miếng, biểu hiện của Tỳ Thổ để điều chỉnh cho Phế
Kim (da lông) chính là áp dụng nguyên tắc Dĩ thổ sinh Kim (Hư bổ mẫu vì Tỳ thổ sinh Phế Kim).
3. Cơ nhục
- Thiên Ngũ Tạng Sinh Thành (TVấn 10) ghi : "Tỳ sinh cơ nhục".
- Thổ khí là nguồn năng lực chuyển hóa thực phẩm ]điều3 đi khắp nơi trong cơ thể để nuôi dưỡng và sinh ra cơ nhục (thịt).
- Người ăn nhiều chất bổ dưỡng mà vẫn gầy yếu là dấu hiệu Thổ khí suy, ngược lại, với thực phẩm đơn giản nhưng lại to béo là dấu hiệu Thổ khí sung mãn,
như vậy, Thổ khí càng sung mãn thì khả năng chuyển hóa thực phẩm càng mạnh, ngược lại Thổ khí suy yếu thì dù thực phẩm đầy đủ chất bổ dưỡng cũng không được chuyển hóa thành tinh chất đem đi nuôi toàn cơ thể.
- Thổ khí suy kém làm cho thịt mềm, trương lực cơ giảm gây ra tứ chi mỏi mệt, bao tử sa, trực tràng sa, tử cung sa...
- Tùy theo vị trí vùng, cục bộ bị teo nhão, có thể biết được cơ quan tạng phủ liên hệ bị suy kém.
+ Chân hoặc tay trái bị teo nhão, mềm, liệt... là dấu hiệu Thổ của Tỳ và Can suy.
+ Chân, tay phải teo nhão, liệt yếu là dấu hiệu Thổ của Tỳ và Thận suy.
- Nếu có sự đột biến, phì đại cơ nhục ở 1 cục bộ... là dấu hiệu Thổ khí của vùng cục bộ đó vượng. Thí dụ : Bướu cổ lồi mắt (cường tuyến giáp trạng), Tuyến giáp có liên hệ đến Phế, vậy trường hợp này là do Thổ của Phế vượng.
b) Về chức năng
4. Tiêu hóa
- Thiên Linh Lan Bí Điển (TVấn 8) ghi : "Tỳ là chỗ cơ bản của hậu thiên - Tỳ chủ tiêu hóa".
- Cơ năng tiêu hóa gồm : Tiêu hóa, hấp thu và vận chuyển các chất dinh dưỡng đi nuôi toàn cơ thể.
- Mọi triệu chứng về tiêu hóa đều có liên hệ đến Tỳ khí : Tỳ tiêu hóa tốt thức ăn được tinh lọc thành tinh chất nuôi cơ thể, Tỳ vận chuyển tốt, thức ăn được đưa đến mọi chỗ trong cơ thể, Tỳ hấp thu tốt thì các dưỡng chất biến thành sức sống nuôi cơ nhục. Ngược lại nếu Tỳ suy kém sẽ gây nên các chứng biếng ăn, mệt mỏi, tiêu chảy...
- Đưa thực phẩm vào (hướng tâm - từ Biểu vào Lý) là động tác của Tỳ Biểu tức là vị khí.
- Chuyển hóa thực phẩm thành tinh chất nuôi cơ thể là chức năng của Tỳ Lý tức Tỳ Khí.
- "Tỳ ố thấp" (Tỳ không ưa sự ẩm ướt), Tỳ khí yếu không vận hóa được Thủy thấp, thủy thấp đọng lại ở ruột gây ra ỉa lỏng, tiêu chảy, khó tiểu, Thủy thấp đọng lại ở phần da thịt gây ra phù.
5. Thống huyết
- Sách Nội Kinh : "Tỳ thống huyết, Huyết đi lên xuống chỉ nhờ ở Tỳ, Tỳ tưới khắp bốn bên".
- "Máu được tạo nên do tinh chất được chuyển hóa từ thức ăn, máu lại vận chuyển khắp nơi để nuôi dưỡng cơ thể, do đó, Thổ khí có liên hệ đến sự vận hành khí huyết.
- Tỳ khí hư, không quản lý được huyết, huyết ra ngoài gây ra xuất huyết : Rong kinh, đại tiện ra huyết lâu ngày...
- Thổ khí suy yếu, sự lưu thông huyết bị trì trệ sẽ gây ra chứng tê, mỏi.
6. Suy tư
Thiên "Bản Thần" (LKhu 8) ghi : "Ở chí của Tỳ là sự suy tư".
- Tư là nhớ đến, nghĩ đến.
- "Tư thương Tỳ" (sự ưu tư làm hại Tỳ).
- Khi ăn uống mà phải nghĩ ngợi đến công việc gì, việc ăn uống kém phần ngon.
- Người hay suy nghĩ, tưởng nhớ đến 1 đối tượng nào quá nhiều, thường bị hao gầy 1 cách nhanh chóng (hay gặp ở những người tương tư...).
- Hao gầy cơ nhục là dùng hiệu Thổ khí suy, hay gặp nơi người lao phổi. Hoặc những người bệnh lâu ngày, không ăn uống được.
- Những người được gọi là "vô tư" (không ưu tư) thường mập mạp, tròn trĩnh và ngược lại, người mập, tròn thường hay vô tư (vô lo).
7. Tư tưởng
- Thiên "Tuyên Minh Ngũ Khí "(TVấn 23) ghi : "Tỳ tàng ý". (Tỳ chứa ý nghĩ, tư tưởng).
- Theo Science News, số 37/1983, các nhà nghiên cứu đại học tổng hợp Nên Mexico theo dõi 260 người ở lứa tuổi 64-94 (40% trong số họ đã tốt nghiệp cao đẳng và tất cả có sức khỏe bình thường). Mục đích thí nghiệm là để kiểm tra giả thuyết cho rằng những người lớn tuổi có trình độ văn hóa cao, điều kiện vật chất dồi dào và được ăn uống bình thường, lại bị bệnh vì thiếu 1 số chất dinh dưỡng, do đó, người ta phát hiện thấy ở họ có sự rối loạn trí nhớ,
5-10% người thử nghiệm có tình trạng dinh dưỡng thấp đã thực hiện Test tồi hơn so với 90% người còn lại. Sau khi thí nghiệm, các nhà nghiên cứu thống nhất nhận định là dinh dưỡng ảnh hưởng đến khả năng trí nhớ và tư duy.
- Người Thổ khí sung mãn thường có khả năng tập trung tư tưởng rất cao, suy nghĩ vững chắc và minh bạch.
- Người Thổ khí suy yếu, khó tập trung ý tưởng vào công việc, mau chán.
- Khi nghe nhạc, khi ăn uống đầy đủ, người ta thường cảm thấy làm việc được nhiều hơn, mang hiệu quả hơn. Trái lại, khi bụng đói, rất khó mà làm việc đạt hiệu quả.
8. Tiếng hát
-Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Tiếng của Tỳ là tiếng hát".
- Các nhà nghiên cứu nhận thấy, cho súc vật nghe nhạc chúng ăn nhiều và đẻ nhiều hơn. Cây cối, khi nghe những loại nhạc êm dịu, mức độ tăng trưởng và ra hoa nhiều hơn nhưng khi nghe những loại nhạc mạnh, kích động, chúng tàn lụi và héo đi nhanh chóng, do đó, giữa Thổ khí và ca nhạc có liên hệ với nhau.
- Ca nhạc làm cho Thổ khí vượng lên, ngược lại khi Thổ khí vượng, người ta thường hát.
- Lúc đói, Thổ khí bị kích động người ta hát hay hơn, khi ăn no Thổ khí bị suy sụp (vì phải huy động để làm chức nằng tiêu hóa), khi đó, người ta cảm thấy nặng nề, tiếng hát èo uột, không có hồn.
- Bệnh viện Luân Đôn của Anh, tháng 10 năm 1984, trong 1 buổi báo cáo cho biết, họ đã dùng âm nhạc thay thuốc tê khi tiến hành mổ các sản phụ. Phương pháp mổ như sau : cho các sản phụ khó sinh vừa nghe bản giao hưởng số Năm của Bethoven vừa tiến hành phẫu thuật. Các sản phụ không thấy đau và ca mổ thành công. Các bác sĩ kết luận rằng phương pháp này chỉ thích hợp với phụ nữ dịu dàng. Có thể hiểu như sau : Khi nghe nhạc (Thổ vượng lên) làm kim
vượng (Thở đều), Hỏa vượng (tuần hoàn tốt), Mộc suy ( các cơ bớt co thắt), Thủy suy (không trướng nước).
9. Mùi thơm
-Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Mùi của Tỳ là mùi thơm".
- Thổ khí sung mãn thì hơi thở và da thịt tỏa mùi thơm, ngược lại Thổ khí suy yếu, da thịt, hơi thở tỏa ra mùi hôi thối (hay gặp nơi những người bệnh lâu ngày, ăn uống suy kém).
- Để cho thuốc vào Tỳ vị, người ta thường sao vị thuốc cho thơm.
- Khi gặp những mùi vị đắng, hôi thối (ngược với mùi vị của Tỳ), người ta thường có cảm giác buồn nôn hoặc muốn ói ra.
10. Vị ngọt
-Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Cam (ngọt) sinh Tỳ, và Vị của Tỳ là vị ngọt".
- Miệng có cảm giác ngọt ngào là dấu hiệu Thổ của Tâm sung mãn.
- Miệng có cảm giác nhạt nhẽo là dấu hiệu Thổ của Tâm suy.
c) Về ngoại giới
11. Sắc vàng
-Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Sắc của Tỳ là sắc vàng".
- Màu vàng bóng, sáng là dấu hiệu Thổ vượng.
- Màu vàng đục tối là dấu hiệu Thổ suy.
- Da vàng là dấu hiệu Thổ khí vượng, Tỳ tàng ý, Tỳ chủ sự suy tư, do đó, các dân tộc da vàng thường thiên về suy tư, vì thế, hầu hết các tư tưởng vĩ đại, những truyền thuyết cao siêu của nhân loại đều phát nguồn từ giống da vàng. Các bộ sách lớn : Nội Kinh, Kinh Dịch, Đạo Đức Kinh... là những bộ sách được cả thế giới công nhận.
- Muốn cho thuốc thấm nhanh vào Tỳ, người ta thường "sao vàng hạ thổ".
12. Thổ khí và Thấp khí
- Sách Y Tông Kim Giám : Trên Trời là Thấp, dưới đất là Thổ, ở người là Tỳ, ở Thổ là Nhục.
- Thấp khí là khí ẩm thấp, có nhiều hơi nước.
- Thổ khí ở người là khả năng đề kháng lại với Thấp khí, thấp khí nhiều sẽ làm Thổ suy.
- Nội Kinh : "Tỳ ố thấp và Thấp thương Tỳ".
- Nếu thấp khí nhiều quá, Thổ khí không đủ sức chống lại, thổ khí sẽ bị suy kém làm cho máu huyết không lưu thông được gây nên Tê mỏi, vì Tỳ có chức năng thống huyết.
- Huyết bị ứ đọng lại sẽ gây nên đau nhức vì "Thông tắc bất thống, thống tắc bất thông", (lưu thông thì không đau, đau là không thông).
- Tỳ có chức năng vận hóa Thủy thấp nếu thổ khí suy yếu, thấp khí đọng lại ở cơ nhục sẽ gây nên chứng Thủy thũng với cảm giác tê mỏi, nặng nề.
- Chứng Cổ trướng (bụng sưng to) là dấu hiệu Thổ khí suy trầm trọng.
- Thổ khí ứng với Trung ương, buổi chiều, nên vượng lên trong thời gian đó. Người thổ khí suy sẽ thấy thuyên giảm vào buổi chiều, nhưng sẽ trầm trọng vào buổi sáng, mùa xuân (thời điểm của Mộc khí vượng, Mộc khắc Thổ).

Nguồn Gốc Ngũ Hành 2

(Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.2)


MỘC KHÍ
(trích từ http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/)

1.- ĐẠI CƯƠNG
- Phương Đông, Mùa Xuân, Buổi sáng là biểu hiện của Thiếu dương khí (theo đồ hình thái cực).

- Tính chất của Thiếu dương là khởi sinh, khởi động. Thiếu dương khí ở người chính là Mộc khí.

- Mở đầu truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du viết : "Ngày Xuân con én đưa thoi", mùa Xuân báo hiệu Mộc khí phát động, biểu hiện bằng hình ảnh nhộn nhịp của chim én.

- Theo tổ chức Y Tế thề giới (OMS) sự phát triển sinh lý của trẻ em, có thể phát triển nhanh vào mùa Xuân hoặc vào mấy giờ đồng hồ sau khi thức giấc (buổi sáng), như vậy, mùa Xuân và buổi sáng có liên hệ với Mộc khí.

- J. G Henrotte và các cộng tác viên, trong "Revue de la société Francaise d?hydrologie" 2è Trimettre, 1972, nhận xét rằng hàm lượng Cholesterol trong máu rất cao vào những tháng đầu năm (Cholesterol là 1 dấu hiệu quan trọng trong việc đánh giá chức năng của gan). Như vậy, mùa Xuân có liên hệ với Mộc khí.

2.- NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA MỘC KHÍ

- Về Cơ Thể

a) Mắt và thị giác

- Thiên 'Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận' (TVấn 5) ghi : "Can khai khiếu ở mắt".

- Tại Sietle (Mỹ) các nhà nghiên cứu nhận thấy : nhiều người bị sưng Gan sau khi trích lấy máu ở dái tai (Các nhà nghiên cứu cho là vì nhiễm trùng, tuy nhiên, nếu trích máu cũng ở tai nhưng vào vùng Thuyền tai hoặc Luân tai... thì không thấy Gan sưng, nếu có nhiễm trùng thì chỉ vùng đó viêm, sưng thôi, không ảnh hưởng gì đến Gan. Ngành Nhĩ châm (châm ở loa tai) cho thấy : dái tai là vùng phản chiếu của Mắt, Mắt tổn thương, gây ảnh hưởng đến Gan vì Can khai khiếu ở mắt. Như vậy giữa Gan và mắt có sự liên hệ với nhau.

- Sự khởi động của Thiếu dương là mở mắt (mở mắt chào đời, bừng mắt thức dậy...), do đó, Mộc khí liên hệ với mắt và thị giác.

- Năm khí (ngũ hành) của Can đều ảnh hưởng đến mắt.

+ Mắt đỏ, viêm, xung huyết đáy mắt... là dấu hiệu Hỏa của Can vượng.

+ Chảy nước mắt nhiều, nước mắt sống... là dấu hiệu Thủy của Can suy.

+ Mắt mỏi, cơ mắt suy yếu cận thị là dấu hiệu Mộc của Can suy.

+ Mắt giật, mắt lồi, mắt nở lớn là dấu hiệu Mộc của Can vượng (Trương Phi, tướng nhà Thục trong Tam quốc chí, là người rất nóng tính (biểu hiện Mộc của Can vượng) mắt của ông lúc ngủ cũng mở lớn như người đang thức).

+ Mắt có mộng, có hột là dấu hiệu Thổ của Can vượng.

2. Nước mắt

- Thiên Tuyên Minh Ngũ Khí (TVấn 23) ghi : "Nước mắt là dịch của Can".

- Nước, thuộc Thủy, Mắt thuộc Can, vì vậy, nước mắt là Thủy dịch của Can. - Nước, thuộc Thủy, Mắt thuộc Can, nên nước mắt là Thủy dịch của Can.

- Thủy dịch ở mắt đầy đủ khiến mắt trong sáng là dấu hiệu Thủy của Can sung mãn.

- Hay chảy nước mắt (nước mắt sống) là dấu hiệu Thủy của Can suy.

- Khi khóc xong mắt thường thấy đỏ là biểu hiện Thủy của Can suy, Hỏa của Can vượng. Khóc làm cho nước mắt chảy ra (Thủy suy), Thủy suy làm Hỏa vượng gây nên mắt đỏ. Nếu khóc nhiều quá, Thủy của can quá suy kiệt, làm Hỏa bùng mạnh lên, không những làm đỏ mắt mà còn gây nhức đầu.

- Khi căng thẳng thần kinh (Hỏa và Mộc vượng) làm nhức đầu, mắt đỏ... Nước mắt sẽ làm dịu bớt các tình trạng trên (Thủy khắc Hỏa). Bác sĩ Eniangopski (Viện hàn lâm y học Liên Xô), khi nghiên cứu về Nước mắt của những người được thí nghiệm ở trong tình trạng thần kinh căng thẳng nhận thấy : Khoảng 75% đàn ông và 95% đàn bà được thí nghiệm cho biết, họ cảm thấy dễ chịu hơn sau khi khóc, cũng theo ông, những người rất ít khóc thường hay bị những chứng bệnh liên hệ đến cảm xúc bị bức bách như : Loét bao tử... (Bao tử loét là 1 hình thức của chứng Can khí phạm vị, Can Mộc vượng lên khắc Tỳ Thổ).

3. Gân cơ

- Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Can chủ gân cơ".

- Trong cơ thể, các sợi gân cơ liên kết với nhau thành hệ vận động. Khởi động là đặc tính của Thiếu dương, do đó Mộc khí và sự vận động có liên hệ với nhau.

- Can huyết đầy đủ, gân cơ được nuôi dưỡng tốt, vận động tốt. Can huyết kém sẽ gây các chứng tê bại, co quắp, run rẩy...

- Trong cơn động kinh, co giật, các gân cơ co quắp... là dấu hiệu Mộc khí vượng.

- Tùy biểu hiện tương ứng, có thể tìm ra dấu hiệu vượng suy của Mộc khí ở các cơ quan Tạng phủ.

Thí dụ : + Bao tử co thắt là dấu hiệu Mộc của Tỳ vượng.

+ Lưỡi khó cử động là dấu hiệu Mộc của Tâm suy.

4. Móng tay, móng chân

- Thiên ?Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận? (TVấn 5) ghi : "Hoa của Can là Trảo". (Vẻ đẹp của Can là móng) và "Ở mức đầy của Can là móng, vấu".

- Thiên Ngũ Tạng Sinh Thành (TVấn 10) ghi : "Can vinh ra ở trảo".

- Móng tay, móng chân (cũng như ngón tay, ngón chân), giống như những đọt lá cây, những chỗ khởi sinh, tương ứng với Thiếu dương, do đó, Mộc khí liên hệ với các móng tay, móng chân. Trong châm cứu, các Tỉnh huyệt luôn khởi ở đầu các ngón tay, ngón chân.

- Móng tay, móng chân mềm, là dấu hiệu Mộc khí suy (hay gặp nơi người ít lao động).

- Móng tay, móng chân dầy, cứng là dấu hiệu Mộc khí vượng (hay gặp nơi những người lao động chân tay).

- Nơi người bệnh phổi, kim khí suy, không khắc được Mộc, Mộc vượng lên làm cho móng tay dầy lên có hình dạng khum như móng chim.

- Móng chân, tay đỏ thắm, dấu hiệu của Hỏa của Can vượng.

- Móng chân tay nhợt nhạt, dấu hiệu Hỏa của can suy.

- Móng tay xanh tím, dấu hiệu Thủy của Can suy.

b) Về chức năng

5. Tàng huyết

Thiên Bản Thần (LKhu 8) ghi : "Can tàng huyết".

- Thiên Ngũ Tạng Sinh Thành (TVấn 10) ghi : "Người ta khi nằm thì huyết dồn về Can".

- Mộc sinh Hỏa, do đó, Mộc khí sung mãn làm cho tuần hoàn (Tâm Hỏa) được lưu
thông tốt, máu huyết đầy đủ.

- Can huyết không đầy đủ, huyết không lên trên được, gây hoa mắt, chóng mặt, gân cơ không được huyết nuôi dưỡng gây bại xụi, mềm yếu, huyết không đủ gây kinh nguyệt ít, bế kinh...

- Can khí bị kích động (cảm xúc, giận dữ...), không giữ được huyết, huyết đi lạc đường gây ra hiện tượng xuất huyết.

- Mộc khí quá vượng, mạch máu sẽ bị co thắt quá độ làm áp huyết gia tăng, có thể gây vỡ mạch, xuất huyết... thường gặp trong các chứng tai biến Não do cao huyết áp.

- Theo nhà Tâm lý học J.Lynch : Nói nhiều (biểu hiện của Mộc vượng) làm cho huyết áp tăng từ 10, 20 đến 50%. Khi trẻ em khóc hoặc thét, huyết áp của chúng cũng tăng.

6. Sự tức giận, phẫn nộ

- Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Ở chí của Can là Nộ".

- Người thường hay nổi cơn giận dữ, phẫn nộ dù nhiều khi chẳng có lý do hoặc lý do rất tầm thường, là dấu hiệu của Mộc khí vượng.

- Khi tức giận, hệ vận động bị kích thích dữ dội khiến người ta nắm tay lại, vung lên, la hét, mắt trợn, phát hung quang... đôi khi đi đến hành động tàn
bạo... là dấu hiệu Mộc khi vượng.

- Nếu Mộc khí quá vượng mà không phát tiết ra ngoài được qua hành động (la hét, phẫn nộ...) làm cho Hỏa và Mộc vượng lên, gây xuất huyết Não, nôn ra máu, xuất huyết tử cung... thường gặp ở phụ nữ hậu sản vì ghen tuôn.

- Theo các nhà nghiên cứu Palestine, vào mùa Xuân, số người tự sát gia tăng cao nhất. Theo họ, không phải mùa xuân gây ra thời tiết xấu, nhưng những người bị bệnh tâm thần (biểu hiện của Tâm Hỏa) cảm thấy khó chịu hơn (mùa xuân thuộc Mộc, Mộc sinh Hỏa).

- Quá uất giận, Mộc khí bị huy động quá độ có thể gây co cứng gân cơ lại, dân gian quen gọi là "chết sững". Trong "Đoạn trường tân thanh", Từ Hải bị Hà Tôn Hiến lừa, tức quá mà chết đứng (gân cơ co rút).

- Nội Kinh : "Nộ thương Can". Sự giận dữ hại Can.

- Khi phẫn nộ, Mộc khí bị kích thích mạnh, nhưng sau khi sự kích thích chấm dứt. Mộc khí bị mất đi phần lớn, đưa đến tình trạng mệt mỏi rã rời (Mộc khí suy).

- Khi điều trị bệnh các bà, nhất là phụ nữ sau khi sinh, có máu ghen, dễ uất (Mộc khí vượng) người ta thường dùng thuốc Bình Can, giải uất.

- Dương sinh dương, sự phẫn nộ giận dữ sẽ sinh ra vô số sự giận dữ và phẫn nộ khác, Âm khắc Dương, do đó muốn tiêu diệt sự giận dữ, phẫn nộ, phải Âm hóa chúng bằng cách hướng tinh thần về cực âm là sự bất phân tranh, sự dịu ngọt, sự hiền lành, hoặc dẫn đến những chỗ yên Tỉnh, thoáng mát, thoải mái...

5. Hay nói

- Thiên Tuyên Minh Ngũ Khí (TVấn 23) ghi : "Can sinh ra chứng hay nói".

- Người Mộc khí vượng, trong lúc tức giận thường hay nói. Nói nhiều là 1 tác động làm tiêu hao Mộc khí, do đó, nếu nói được nhiều thì họ sẽ nguôi được cơn
giận. Nếu không nói được, Mộc khí xung vượng làm Hỏa khí vượng theo, có thể gây xuất huyết, hôn mê thậm chí có thể chết vì tức. Trong truyện Tam quốc chí có kể : Vương Lăng, quân sư nước Ngụy bị Khổng Minh là quân sư nước Thục thuyết phục đến nỗi tức giận không nói lại được, thổ huyết ra mà chết.

- Lúc sốt cao, người ta thường hay nói "sảng" là dấu hiệu của Hỏa và Mộc vượng (Hỏa vượng làm Mộc vượng).

- Kim khắc Mộc, Kim suy không khắc được Mộc làm Mộc vượng lên : Một xã hội đầy những sự buồn phiền (dấu hiệu Kim suy). Mộc khí nhân đó vượng lên, sinh ra chứng nói nhiều, sinh ra nhiều cuồng sĩ uất ức chửi bới.

- Uống rượu vào mạch máu nở ra, tuần hoàn máu gia tăng ( Hỏa vượng) làm cho Mộc khí vượng theo gây ra nói nhiều, đập phá... (tửu nhập ngôn xuất).

- Bác sĩ Duan Kromhout và đồng nghiệp ở đại học Leiden (thành phố Zutphen) chế tạo ra 1 máy "Giải uất". Máy này có dạng hình ống loa ở miệng những người thần kinh căng thẳng, kê miệng vào đó tha hồ mà nói, máy có bộ phận hãm thanh, không để âm thanh lọt ra ngoài, do đó cứ yên tâm mà nói. Sau 1 thời gian áp dụng, các nhà nghiên cứu nhận thấy, số người dùng máy này, cảm thấy thần kinh bớt căng thẳng ngay sau khi nói vào máy xong.

6. Tiếng la hét

- Thiên ?Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận? (TVấn 5) ghi : "Tiếng của Can là tiếng hét".

- Tiếng khóc của trẻ lúc mới sinh ra, tiếng người rộn rã gọi nhau lúc sáng sớm, tiếng hót kêu của các loại chim... là dấu hiệu Mộc khí phát động.

- Để bắt đầu làm 1 công việc gì, thường người ta hô lên : Nào một, hai, ba...

- Lúc quá giận dữ, người ta thường hét to lên, biểu hiện của Mộc khí phát động cùng độ, gân cơ bị kích thích đến độ khẩn trương khiến người ta làm được nhiều việc phi thường, kể cả những việc tàn bạo.

- Người bệnh hay bực dọc, kêu la, bất bình là dấu hiệu của Mộc khí vượng.

- "Vật cùng tắc phản, âm quá hóa dương, dương quá hóa âm, sau sự kích thích tối đa, Mộc khí trở nên hao hụt dẫn đến tình trạng mỏi mệt rã rời.

7. Sự nắm tay

- Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Ở sự biến động của Can là nắm, níu".

- Can chủ vận động, Mộc khí bị kích thích, người bệnh thường nắm tay lại (hay gặp nơi người bị sốt cao, bị kích thích mạnh, giận dữ...).

- Khi giận dữ quá độ (Mộc khí bị huy động quá) tình cảm biến thành hành động, khiến người ta nắm tay lại hoặc bóp cổ địch thủ.

- Để biểu lộ quyết tâm hành động, người ta thường nắm tay lại và vung lên. Thề hứa làm việc gì, người ta cũng nắm tay lại và vung lên.

- Người Mộc khí sung mãn thường có 1 cách bắt tay mạnh mẽ, nồng nàn, thân thiết. Ngược lại, người Mộc khí suy kém thường bắt tay 1 cách rụt rè, ơ hờ.

c) Về Ngoại Giới

8. Sắc Xanh

- Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Sắc của Can là sắc xanh".

- Mô tả mùa xuân, Nguyễn Du trong "Đoạn Trường Tân Thanh" ghi : "Cỏ non xanh tận chân trời".

- Sắc xanh của người chính là sắc xanh của Tĩnh mạch dưới da, do đó, Tĩnh mạch có liên hệ với Mộc khí.

- Tĩnh mạch trương nở, máu huyết lưu thông trì trệ là dấu hiệu Mộc khí suy yếu.

- Mửa ra chất xanh là dấu hiệu Mộc của Tỳ vượng.

- Ho ra đờm xanh là dấu hiệu Mộc của phế vượng.

- Màu xanh bóng, sáng là dấu hiệu Mộc khí sung mãn, trái lại màu xanh tối đục là dấu hiệu Mộc khí suy kém.

- Ở bệnh viện Axiaphânphao (Cộng Hòa Dân Chủ Đức), người ta thấy rằng người đang khỏi bệnh bao tử loét, dần dần trở nên xa lánh màu xanh lục (màu xanh thuộc Can Mộc, Can Mộc khắc Tỳ Thổ gây nên chứng bao tử loét, do đó, khi Thổ khỏe mạnh lên, sợ sắc của Mộc).

- Theo tạp chí Quid, năm 1984, những người có mụn nhọt đã đóng vẩy thì vảy sẽ bay nhanh nếu tiếp xúc luôn với màu xanh.

- Tại Mỹ, tính đến tháng giêng năm 1986, đã có gần 30.000 trẻ sơ sinh mắc bệnh vàng da (do thừa nhiễm sắc tố mật - dấu hiệu của Thổ vượng) đã được chữa khỏi bằng cách tắm ánh đèn màu xanh da trời (màu xanh là màu của Can, Can Mộc khắc Tỳ Thổ).

9. Vị chua

Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Vị của Can là vị chua"

- Thiếu dương, mùa xuân là mùa cây trái mới trổ, chưa chín, còn chua.

- Nôn ra nước chua là dấu hiệu Mộc của Tỳ vượng.

- Lưỡi cảm thấy chua là dấu hiệu Mộc của Tâm vượng.

- Muốn cho thuốc đi vào (quy kinh) Can, người ta thường tẩm thuốc với dấm (vị chua).

9. Phong khí

- Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Bệnh của mùa xuân là bệnh của Phong".

- Theo sách Y Tông Kim Giám : trên trời là phong, dưới đất là Mộc, ở người là Can, ở thể là cân.

- Phong khí có thể kết hợp với các tà khí khác gây ra Phong hàn (cảm lạnh), Phong nhiệt (cảm sốt)...

- Phong khí thông với Can khí vì thế nên phong khí gây bệnh đều ảnh hưởng đến Can Mộc.

- Nội Kinh : "Can ố Phong" và "Phong thương Can" (Can không thích gió và gió làm tổn hại Can).

- Tiến sĩ Felix Sulman, khoa sinh khí hậu học (Bioclimatologie) đại học Hadassah (Giêrusalem) nhận thấy :

+ Một số người cho rằng, họ thấy khó chịu và căng thẳng, rất dễ giận dữ khi có gió to (Phong khí làm Mộc khí phát động).

+ Gió có thể làm cho 1 số người đang bệnh, ban đêm không ngủ được. (Can tàng huyết, ban đêm huyết trở về Can, nay Mộc khí phát động, Can khí vượng lên, không tàng được huyết, gây khó ngủ).

+ Ở những vùng thường có gió mạnh thường xảy ra nhiều tai nạn xe hơi khi gió đó thổi tới. Trong thời kỳ có gió ấy, cũng thường xảy ra nhiều vụ tội phạm hơn, thậm chí có 1 số đi đến tự sát. (Mộc khí sinh Hỏa, Mộc khí gia tăng sự hoạt động).

- Mộc khí là nguồn năng lực của cơ thể để kháng lại với gió (Phong khí) gặp gió nhiều, Mộc khí sẽ bị suy yếu (mất sự đề kháng) sẽ gây bệnh.

- Người sợ gió là người có Mộc khí suy yếu.

- Can khí bất thường, Mộc khí gia tăng làm phong khí khởi phát sinh ra chứng Can phong nội động gây lác mắt, miệng méo, chân tay run giật ...

- Nơi người Mộc khí suy, sẽ thấy dễ chịu vào buổi sáng, mùa xuân (thời điểm của Mộc khí vượng) và khó chịu vào buổi chiều, mùa thu (thời điểm của Mộc khí suy).

- Nơi người Mộc khí vượng sẽ thấy khó chịu vào buổi sáng, mùa xuân (thời điểm Mộc khí vượng) và dễ chịu vào buổi chiều, mùa thu (thời điểm Mộc khí suy).


HỎA KHÍ
(trích từ http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/)

A.- ĐẠI CƯƠNG
- Phương nam, mùa hè, buổi trưa là biểu hiện của Thái dương (theo đồ Thái cực).
Tính chất rõ rệt nhất của Thái dương là Nhiệt khí. Ở người được gọi là Hỏa khí.

- Theo A. Reinberg, trong "La Nouvelle Presse Médicale" tập 2, số 5, ngày 3-2-1973 thì các cực số liên hệ đến những trường hợp tử vong vì Tim và huyết mạch đều ở trong khoảng tháng tư, năm, sáu (thời điểm của mùa hè) tương ứng của Thái dương, hỏa khí, do đó, mùa hè và Hỏa khí có liên hệ với nhau.

- Tạp chí Y học Liên Xô "Kochmicheskaia Biologia I Meditsima" số 1, năm 1972 ghi : " Trong ngày đêm, trên máy ghi biểu đồ tiếng Tim, tính động lực của mạch và phương diện chu kỳ biên độ đạt mức tối đa giữa khoảng 11-13g (giờ Ngọ, giữa trưa, cao điểm của Thái dương, đồng thời là giờ vượng của Tâm kinh, do đó, buổi trưa và Hỏa khí có liên hệ với nhau.

B.- NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA HỎA KHÍ

a) Về cơ thể

1. Lưỡi và vị giác

- Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Tâm khai khiếu ở lưỡi".

- Lưỡi thường thường có sắc đỏ, biểu hiện Hỏa khí 1 cách rõ rệt.

- Lưỡi lở, dộp, nứt nẻ, viêm (sưng)... là dấu hiệu Hỏa của Tâm vượng.

- Tùy theo màu sắc của lưỡi, có thể suy ra tình trạng vượng suy ngũ hành của Tâm.

- Lưỡi hồng nhạt là dấu hiệu Hỏa của Tâm suy.

- Lưỡi xanh tối là dấu hiệu Mộc của Tâm suy.

- Lưỡi vàng tối là dấu hiệu Thổ của Tâm suy.

- Lưỡi đen bẩn là dấu hiệu Thủy của Tâm suy.

- Miệng có vị đắng (lưỡi đắng) là dấu hiệu Hỏa của Tâm vượng.

- Miệng có vị chua là dấu hiệu Mộc của Tâm vượng.

2. Mồ hôi

- Thiên "Tuyên Minh Ngũ Khí" (TVấn 23) ghi : "Mồ hôi là dịch của Tâm".

- Khi trời nóng, lúc bị sốt, thường thấy có hiện tượng xuất mồ hôi, do đó, Hỏa khí và mồ hôi có liên hệ với nhau. Mồ hôi là Thủy dịch dùng để chế ngự Hỏa khí.

- Sốt mà có mồ hôi là dùng hiệu tốt : Thủy khí còn vững mạnh để chống lại với nhiệt tà.

- Sốt mà không có mồ hôi là dấu hiệu nhiệt tà mạnh hơn chính khí.

- Khi bị cảm, sốt nóng, không ra được mồ hôi, người ta dùng nồi xông cho đổ mồ hôi để ức chế nhiệt tà, người ta sẽ bớt sốt.

- Không nóng sốt mà xuất mồ hôi (Mồ hôi lạnh hay gặp ở những người thần kinh suy nhược) là dấu hiệu Thủy của Tâm suy.

- Tự ra mồ hôi (tự hãn) hoặc ra mồ hôi ban đêm (mồ hôi trộm, đạo hãn) là dấu hiệu Thủy của Tâm suy.

3. Chủ thần minh

- Thiên "Tuyên Minh Ngũ Khí" (TVấn 23) ghi : "Tâm tàng thần".

- Thiên " Thiên Niên" (LKhu 54) ghi : "Còn Thần thì sống, mất thần thì chết", tuần hoàn còn thì sống, tuần hoàn ngưng thì chết, do đó Tâm và thần có liên hệ với nhau.

- Với người bệnh : người có thần, biểu hiện bằng nét mặt tươi sáng, ánh mắt nhanh nhẹn, nói cười đứng đắn, ý tưởng phân minh thì bệnh có chiều hướng tốt, dễ điều trị. Ngược lại, gọi là hiện tượng mất (thất) thần, dấu hiệu của bệnh trầm trọng, nguy hiểm.

- Tinh thần căng thẳng, thần trí bị xúc động sinh ra hoạt náo, nóng nẩy, hằn học, lăn lộn, mất ngủ, nằm ngồi không yên, kích động, phá phách mọi người chung quanh (điên cuồng).

- Tâm trí suy nhược, Thần không có chỗ dựa, người bệnh sinh ra ngớ ngẩn, hay quên, lo lắng, hồi hộp, sợ hãi thất thường.

- Vẫn bác sĩ tại Massachusetts, sau khi nghiên cứu 1.000 người cho thấy; sự căng thẳng tinh thần có thể gây đau tim. Khi thí nghiệm, những người này được gặp những tình trạng nhân tạo tương tự các trường hợp gây sự căng thẳng tinh thần trong đời sống hằng ngày của họ. Điều đáng chú ý là những người này trông có vẻ khỏe mạnh và điềm Tỉnh trong suốt thời gian trắc nghiệm. Nhưng sau đó sự căng thẳng tinh thần đã gây ra 1 số tai nạn trong tim và huyết quản của họ. Một số người tim bắt đầu bơm mạnh hơn và với một số người khác thì tim lại bơm máu ít hơn. Ở một số người, huyết quản nở ra, số khác lại co vào làm tăng huyết áp. Trường hợp nặng hơn, áp huyết lên cao và Tim bơm thêm máu vào nhưng huyết quản lại co lại và trở thành nhỏ hẹp hơn giới hạn sự lưu thông của máu làm tim phải làm việc rất mệt để đẩy máu vào động mạch.

4. Phát nhiệt

-Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Phương Nam sinh nhiệt".

- Viêm nhiệt là dấu hiệu Hỏa vượng.

- Tùy theo vùng và vị trí phát nhiệt, có thể suy ra dấu hiệu Hỏa vượng.

+ Phát nhiệt ở vùng Tâm là dấu hiệu Hỏa của Tâm vượng.

- Sờ đầu mặt, trán, ngực thấy nóng là dấu hiệu Hỏa ở Biểu của Tâm vượng.

- Nóng trong đầu, cảm thấy nóng trong ngực... như dấu hiệu Hỏa ở lý của Tâm vượng.

+ Phát nhiệt ở vùng Thận (lưng nóng, lòng bàn chân nóng...) là dấu hiệu Hỏa của Thận vượng.

+ Phát nhiệt ở vùng Can (Mắt sưng đỏ, đau...) là dấu hiệu Hỏa của Can vượng.

+ Phát nhiệt ở vùng Tỳ (Miệng lở, môi nứt...) là dấu hiệu Hỏa của Tỳ vượng.

5. Tâm chủ huyết

-Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Ở thể của Tâm là mạch".

- Xung huyết liên hệ mật thiết với sự phát nhiệt, do đó, huyết mạch và hỏa khí có liên hệ với nhau.

- Xung huyết, xuất huyết là dấu hiệu Hỏa khí vượng.

- Tùy vùng xung huyết hoặc xuất huyết, có thể biết được tình trạng Hỏa khí ở vùng nào gia tăng.

+ Xuất huyết não, đau bưng cả đầu là dấu hiệu Hỏa của Tâm vượng.

+ Xuất huyết đáy mắt là dấu hiệu Hỏa của Can vượng.

+ Xuất huyết bao tử là dấu hiệu Hỏa của Tỳ vượng.

+ Xuất huyết Phổi là dấu hiệu Hỏa của Phế vượng.

+ Xuất huyết đường tiểu là dấu hiệu Hỏa của Thận vượng.

6. Sự vui mừng

-Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Ở chí của Tâm là vui mừng (Hỷ)".

- Khi người ta gặp điều gì vui mừng, Hỏa khí bùng lên, da mặt đỏ, hồng, mạch nhảy nhanh hơn, Tim đập mạnh hơn... do đó, sự vui mừng và Hỏa khí có liên hệ với nhau.

- Sự vui mừng do ngoại giới đưa đến, làm Hỏa khí bùng lên, Tâm khí biến đổi theo 2 giai đoạn :

+ Giai đoạn đầu : Tâm Hỏa vụt mạnh lên, vì bị huy động (cười hả hê, mặt hồng hào hoặc đỏ bừng, tim đập nhanh).

+ Giai đoạn hai : Tâm Hỏa suy yếu, vì bị kích thích, (mặt nhợt nhạt, vã mồ hôi, lạnh người trụy mạch, tim đập chậm, yếu...

+ Nhiều người bất ngờ trúng số độc đắc, quá vui mừng (Tâm Hỏa bùng lên) có thể ngất hoặc chết (Tâm Hỏa suy).

- Như vậy có 2 hình thức vui mừng :

+ Vui mừng do ngoại giới đưa đến, làm cho Tâm Hỏa chỉ bùng lên một thời gian rồi bị suy yếu, đó là nguyên nhân lớn lao của sự đau khổ.

+ Vui mừng của những người hiền triết, của các nhà cách mạng là sự vui mừng biết làm chủ được mình, không bị ngoại cảnh chi phối, sự vui mừng làm cho tâm hồn thoải mái, đem lại vui tươi, hạnh phúc.

7. Tiếng cười

-Thiên Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận (TVấn 5) ghi : "Tiếng của Tâm là tiếng cười".

- Trong các buổi tiệc, hoàn cảnh náo nhiệt, vui mừng, hội hè, say sưa, tiếng cười luôn nổi bật.

- Rượu uống vào, kích thích Hỏa khí làm người ta cười.

- Nơi người điên dạng hưng phấn, Hỏa khí vượng lên, làm người đó cười luôn miệng.

- "Tâm tàng thần", nếu Tâm suy kém, không tàng được thần ( Trong trường hợp bệnh về não, bệnh tâm thần) người ta không làm chủ được tiếng cười, có khi mất hẳn nụ cười.

- Nếu ta thường xuyên có những nụ cười thoải mái, chân thành, ta sẽ luôn vui mừng cường tráng.

- Theo giáo sư Uphrai, đại học Standford (Mỹ) và các nhà nghiên cứu Tây Ban Nha, khi cười thoải mái nhất, các cơ ngực khỏe ra, và tim được vận động tốt. Vì thế người ta vẫn thường ví : "Nụ cười là liều thuốc bổ".

b) Về Ngoại Giới

8. Sắc đỏ

-Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Sắc của Tâm là sắc đỏ".

- Sắc của các chứng viêm nhiệt, xung huyết là sắc đỏ.

- Tùy theo vị trí có sắc đỏ, có thể biết được trạng thái viêm nhiệt, xung huyết của các cơ quan tạng phủ tương ứng.

+ Lưỡi đỏ là dấu hiệu Hỏa của Tâm vượng.

+ Mắt đỏ là dấu hiệu Hỏa của Can vượng.

- Giáo sư Halôtunônfat, đại học Abôđôn (Canada) cho biết, trong môi trường có nền là ánh sáng đỏ, nhịp tim và huyết áp người tăng thêm 17%.

- Bệnh viện Berlin (CHDC Đức) nghiên cứu qua 3.000 người và nhận thầy là những người bệnh về chức năng Tim đều khó chịu với màu đỏ.

- Mac Luyxiê, nhà tâm lý học Thụy Sĩ cho rằng : người bệnh Tim theo bản năng đã cự tuyệt trước màu đỏ, một màu có tính kích thích, gây nguy hại cho Tim của họ.

- Da đỏ, biểu hiện Hỏa khí vượng, các dân tộc da đỏ thường biểu hiện Hỏa khí của mình bằng sự vui mừng nhẩy múa, hò hét rất cuồng nhiệt.

9. Hỏa khí và Nhiệt khí

-Thiên "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Nhiệt sinh Hỏa".

- Sách Y Tông Kim Giám ghi : "Trên trời là Nhiệt, dưới đất là Hỏa, ở người là Tâm, ở Thể là mạch".

- Hỏa khí và Nhiệt khí thông với Tâm, do đó, các bệnh về Hỏa khí và nhiệt khí đều liên hệ với Tâm.

- Hỏa khí ở người là khả năng đề kháng lại với nhiệt khí bên ngoài. Khi gặp Nhiệt khí, Hỏa khí bị kích thích, xung vượng để rồi sau đó bị suy yếu. Nếu Hỏa
khí bị xung động thái quá, sẽ suy kiệt 1 cách đột ngột, dễ rơi vào trạng thái mất đề kháng gây ra trúng nắng, say nóng...

- Hỏa khí ứng với Thái dương, Phương Nam, Mùa hè buổi trưa, nên cũng vượng lên trong không gian và thời gian trên.

- Ở người Hỏa vượng, bệnh trở nên trầm trọng vào buổi trưa, mùa hè (là thời điểm Hỏa vượng).

- Với chứng Hỏa suy, bệnh thuyên giảm vào buổi sáng và trưa (thời điểm của Thiếu dương và Thái dương).

(Xem Tiếp Tử vi dưới mắt Nghiệp quả bài 4.3)